Tâm trạng của Tố Hữu trong bài thơ Tâm tư trong tù?

Phân tích, bình luận về tâm trạng của Tố Hữu trong bài thơ Tâm tư trong tù?

An Khoi
An Khoi
Trả lời 8 năm trước

Tâm trạng của Tố Hữu trong bài thơ Tâm tư trong tù.

Tâm trạng:

+ Tâm trạng người trẻ tuổi (nỗi cô đơn và niềm khao khát tự do) => cảm xúc bồng bột.

+ Tâm trạng người chiến sĩ (phấn chấn vì tự đấu tranh được với bản thân mình, lời thề giữ vững ý chí và quyết tâm chiến đấu) => nhận thức sâu sắc. Hướng dẫn:

MỞ BÀI

Bài thơ Tâm tư trong tù được Tố Hữu sáng tác trong thời gian ông bị kẻ thù bắt giam tại xà lim hoàn toàn cách biệt với cuộc sống bên ngoài ở nhà lao Thừa Thiên. Đối với một thanh niên mới mười chín tuổi vừa được giác ngô cách mạng, đang hăng say hoạt động giữa bạn bè dồng chí với bao niềm vui sướng tin yêu bồng bột, có phần lãng mạn thì việc bị bắt giam như thế là một bước ngoặt gây xáo động mạnh mẽ trong tâm hồn. Có lõ vì thế mà Tâm tư trong tù đã thể hiện rất chân thật những cảm xúc, những nhận thức của một người trẻ tuổi, một người chiến sĩ lần đầu tiên bị giam hãm trong tù ngục, đó là nỗi cô đơn và niềm khao khát tự do, là tâm trạng phấn chấn vì tự đấu tranh được với mình, là lời thề giữ vững ý chí và quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng.

THÂN BÀI

+ Nỗi cô đơn và niềm khao khát tự do:

Cảm giác cô đơn:

Hướng ra cuộc sống bên ngoài

Suy nghĩ về tự do

Ở phần đầu bài thơ, Tố Hữu đã thể hiện nổi bật cảm giác cô đơn của mình qua sự đối lập tương phản giữa hai cảnh đời, giữa hai thế giới. Trước hết, cảm giáccô đơn được xác nhận ngay trong điệp khúc: “Cô đơn thay là cảnh thân tù ”. Tiếng kêu ấy vang lên khi nhà thơ cùng một lúc hướng giác quan về hai phía tai “nghe tiếng đời lăn náo nức” bên ngoài, và mắt nhìn cận cảnh trong bốn bức tường nhà giam chặt hẹp, tối tăm

Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều

Len nhẹ nhẹ qua rào ô cửa nhỏ

Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ

Đây sàn lim manh ván ghép sầm u...

Cảnh trong tù được quan sát và miêu tả rất cụ thể: Vài tia nắng nhợt nhạt lúc hoàng hôn khiến cho không khí nhà giam thêm “âm u”, một ô của sổ vốn đã nhỏ bé nhưng lại được rào kín bằng những song sắt kiên cố đến mức ngay cả tia nắng chiều yếu ớt cũng phải "len nhẹ nhẹ mới vào được bên trong, bốn bức tường xám xịt càng làm tăng thêm vẻ ghê sợ của nơi đày đọa con người, những mảnh ván đen đủi càng làm cho phòng giam thêm “sầm ù” (tối sầm, âm u). Tất cả chỉ có vậy, ảm đạm và nghiệt ngả đối với một người tuổi trẻ đang yêu đời, khao khát tự do. Điệp từ “dãy” tầng tầng lớp lớp giới thiệu những cảnh tù đày cụ thể và diễn tả tâm trạng khổ sở, day dứt của người trẻ tuổi.

Chính trong cảm giác cô đơn. Tố Hữu đã tập trung cao độ sự chú ý vềthính giác để lắng nghe những âm thanh của thế giới bên ngoài đang vọng vào nhà giam:

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!

Nhà thơ nghe mà như nhìn thấy tất cả những hình ảnh sinh động đang diễn ra ở thế giới bên ngoài những con chim vui hót, những con dơi chiều đập cánh thật “vội vã’’, một con ngựa rùng chân bên giếng lạnh, ai đó đang đi xa đần trên đường. Điệp khúc “Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu" đã diễn tả rất thành công nỗi thèm khát cuộc sống tự do không giấu giếm của tác giả. Với người đang bị giam trong ngục, những âm thanh đó có sức gợi rất lớn, đặc biệt là gợi lên niềm khao khát được hòa mình vào cuộc sống tự do:

Ôi! Hôm nay sao nhựa sống tràn trề

Trong những tiếng nghe chừng quen thuộc quá!

Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá

Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài.

Cũng vì quá cô đơn và khao khát tự do nên nhà thơ đã tưởng tượng ra cái thế giới bên ngoài là một trời rộng rãi. . đời sây hoa trái... Hương tự do thơm ngát cà ngàn ngày... ”, Nhưng rồi những giây phút mơ mộng và đầy ảo tưởng rồi cùng qua đi, nhà thơ đã bình tĩnh, tỉnh táo lại để suy xét về nhiều điều, về tự do. Tố Hữu thấy rõ dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, cái thế giới bên ngoài kia cũng chẳng có tự do thực sự. Trái lại:

Ở ngoài kia... biết bao thân tù hăm

Đọa đày trong những hố thẳm không cùng

Từ đó, nhà thơ cảm nhận sâu sắc rằng, cả xã hội đương thời cũng chỉ là một nhà tù khổng lồ, bao trùm vô số những nhà tù nhỏ khác, ở đây có một mối liên tương giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, bi kịch của nhà thơ chỉ là một trường hợp cụ thể của bi kịch mất nước của dân tộc ta mà thôi:

Tôi chiều nay giam cấm hận trong lòng

Chỉ là một giữa loài người đau khổ

Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ

Vứt trong lồng con giữa một lồng to.

Lời thề giữ vững ý chí và quyết tâm chiến đấu:

Dự đoán về con đường tù đày

Khẳng định quan niệm sống- chết

Khi đã nhận thức đúng đắn về thực trạng đen tối của xã hội đươngthời, bài thơ đã cósự chuyển hướng trong mạch tâm tư của chủ thể trữ tình. Nhà thơ thấy được giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc có chung thân phận, cũng có nghĩa là có chung trách nhiệm, bản thân nhà thơ là một tù nhân nhưng cũng là một người đứng cùng đội ngũ với những chiến sĩở ngoài nhà tù đang dũng cảm chiến đấu cho Tổ quốc độc lập tự do. Tuy thừa nhận tâm trạng cô đơn trong tù là không thể tránh khỏi (Cô đơn thay là cảnh thân tù) nhưng khi đã xác định tư thế người chiến sĩ, nhà thơ không còn cảm thấy cô đơn nữa mà cảm thấy phấn chấn, quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù. Bằng cảm hứng tự hào, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ trẻ tuổi hiên ngang, bất khuất trong các văn thơ rất hào hùng dưới đây:

Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu

Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu

Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ!

Chính sự cảm nhận về mối quanhệ gắn bó hòa hợp giữa cuộc sống chung của cá nhân với vận mệnh chung của dân tộc đã tiếp một nguồn sức sống mới để nhà thơ thêm kiêu hãnh, tự hào về lí tưởng cao đẹp mà mình đã lựa chọn, thêm sức mạnh để vượt qua những thử thách khó khăn. Một lần nữa trí tưởng tượng của Tố Hữu lại vượt lên trênthực tại lao tù nhưng không phải để đến với những ảo ảnh như ở đoạn thơ trên màđểdựđoán về những bước sắp tới trên con đường tù đày, từ đó thêm quyết tâm giữ vững lòng trung tình với cách mạng:

Nơi đây ai là Đắc Pao, Lao Bảo

Là Côn Lôn, thế giới của ưu phiền

Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin

Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn

Tố Hữu đã kết thúc bài thơ của mình với những câu thơ mang dáng điệu của những lời Tuyên ngôn phát biểu về quan niệm sống, chết của người chiến sĩ cách mạng. Đối với họ, đã làm người thì không thể sống kiếp nô lệ nhục nhã, sống là phải đấu tranh cho tự do, là sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, nguy hiểm, hi sinh, còn sống là còn chiến đấu không ngừng

Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận

Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời

Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi

Còn trừ diệt cả một loài thú độc

Với ý thơ này, ông ĐặngThai Mai có nhận xết: “Những câu thơ như thế chính là bản quyết tâm thư của một người chiến sĩ không hề do dự trước nhiệm vụ, không lùi bước trước bạo lực quân thù".

3. KẾT LUẬN

Có thể thấy sự vận động từ cảm xúc đến nhận thức trong bài thơ này không hề tạo tính chất mâu thuẫn giữa hai yếu tố ấy. Trái lại, chúng hoàn toàn thống nhất và cùng góp phần biểu hiện đặc điểm hồn thơ Tố Hữu trên chặng đường cách mạng đầu tiên: đó là sự cố gắng không ngừng để vượt lên, để điều khiển, chế ngự những cảm xúc bồng bột của tuổi trẻ bằng sự soi sáng của nhận thức xã hội, của ý chí cách mạng.

Vũ Thị Hằng
Vũ Thị Hằng
Trả lời 8 năm trước

Bài viết về tâm trạng của nhà thơ Tố Hữu trong tác phẩm Tâm tư trong tù.

"Bài thơ Tâm tư trong tù hay chính là một khúc ca tâm trạng của người thanh niên trẻ – một cánh chim tự do bị giam cầm khát khao được sổ lồng tung cánh"

Năm 1939, Tố Hữu rơi vào nanh vuốt thực dân Pháp. Chúng giam nhà thơ ở Huế. Cuộc đời hoạt động cách mạng bị ngắt quãng. Tô Hữu chìm vào thế bị động, cô đơn nhiều u uẩn. Cuộc sống của người thanh niên trẻ giờ đây chỉ còn là những chuỗi ngày vô nghĩa. Chí hướng không thể thực hiện được. Tố Hữu thốt lên từ tận đáy lòng lời bộc bạch của một tù nhân.

Cô đơn thay là cảnh thân tù!

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực.

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức.

Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu! .

Lòng Tố Hữu rối như tơ vò. Cuộc sống bao trùm là những chuỗi ngày cô đơn. Sự cô độc – sự bơ vơ làm cho người ta rơi vào khủng hoảng. Bởi vì “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Còn nhà tù là nơi bọn thực dân cầm dao cắt đứt tất cả các quan hệ với xã hội, với anh em đồng chí của tù nhân. Thể xác bị dằn vặt, tinh thần thì lạc lõng. Ôi quả thật đây là một sự thông trị tàn ác! Chính trong sự cô đơn đáng sợ ấy, người chiến sĩ cách mạng cố để cho tâm tưởng của mình giao tiếp với bên ngoài. Phải chăng chính sự giao cảm ấy sẽ làm cho con người ta đỡ phần nào hiu quạnh? Sự tự do đã mất. Tố Hữu mở rộng đôi tai, giang rộng cửa lòng để tìm nghe những âm thanh của cuộc sống bên ngoài. Cuộc sống ấy, đối với anh ta và những chiến sĩ cách mạng khác bị giam cầm bây giờ không còn được tận hưởng sự đa dạng, cái phong phú, mọi sự biến đổi của nó.

Làm sao ta có thể hiểu hết được tâm hồn của người tù khi bị giam trong tù ngục? Chỉ có những ai đồng cảnh ngộ mới có thể hiểu hết nỗi đau của họ. Hiện tại, họ chỉ có thể ngồi xà lim bưng bít, cố:

Đôi ánh lạt ban chiều

Len nhẹ nhẹ qua rào ô cửa nhỏ.

Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ

Đây sàn lim, manh ván ghép sầm u…

“Đôi ánh lạt ban chiều” len nhẹ qua vào ô cửa nhỏ của căn xà lim làm cho người tù càng cảm thấy buồn da diết. Ánh nắng bình minh tượng trưng cho sức sống, cho sự trẻ trung nhiều hi vọng, còn ánh nắng chiều hôm biểu hiện cho sự tàn tạ, sầu héo và càng làm cho tâm hồn con ngựời bơ vơ lạc lõng giữa thiên nhiên.

Nói đến thiên nhiên – dù chỉ là ánh mai sắp tắt, cũng là sự khao khát được cảm nhận nét trong trẻo thanh khiết của nó đối với những người tù. Nhìn ánh nắng lạt dần theo thời gian người tù có cảm tưởng như cuộc đời mình cũng thế. Cảnh và người đang có cùng tâm trạng. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Nhà thơ thốt lên giữa thực tại phũ phàng:

Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ

Đây sàn lim, manh ván ghép sầm u..

Một thế giới tù ngục được Tố Hữu vẽ ra thật não nùng. Bốn tường đá vô tri, khắc khổ, không biết đã vô tình giam chân biết bao nhiêu người chiến sĩ. Sàn xà lim với những mảnh ván ghép, chắc đã không ít người nàm lại đây vĩnh viễn nên có vẻ sầm u… Sự vật vô tri dưới cặp mắt của nhà thơ dường như cũng có tâm trạng. Chúng được những con người gây ra tội ác tạo nên để thực hiện những việc làm tội ác. Tất cả sự chết chóc đau đớn và tội lỗi như khắc vào từng tường vôi, mảnh ván. Sự vật – hay chính là những nhân chứng xác thực về tội ác của bọn thực dân?

tam-tu-trong-tu

Bài thơ Tâm tư trong tù hay chính là một khúc ca tâm trạng của người thanh niên trẻ – một cánh chim tự do bị giam cầm khát khao được sổ lồng tung cánh

Trở lại với thực tại. Tố Hữu không phải thốt lên lần thứ hai những câu thơ – hay những câu hát lòng buồn bã:

Cô đơn thay là cảnh thân tù!

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!

Điệp khúc tâm trạng ấy được lặp lại nghe não nùng chua xót. Xót xa cho phận mình và ước ao được hòa mình vào cuộc sống. Tất cả choáng ngợp cả tâm hồn trẻ trung của tù nhân. Sự đau khổ của con người ấy tăng lên nhưng sự ham hố được tự do, được hoạt động đã trở thành một ngọn sóng lòng dào dạt, thôi thúc nhà thơ bằng tất cả mọi giác quan, nhưng chủ yếu có lẽ là đôi tai, nhà thơ đang lắng nghe và cảm nhận cuộc sống bên ngoài tù ngục. Thiên nhiên mà tác giả cảm nhận được không còn là “ánh lạt ban chiều” buồn bã mà là:

Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều

Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh

Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh

Dưới đường xa, nghe tiếng guốc đi về…

Sự cảm nhận ấy thật tinh tế và sâu sắc. Ta cảm thấy thiên nhiên có chút gì phẫn nộ, có một sự nổi dậy, một sự phản công hay giận dừ. Tiếng chim cô đơn trong thiên nhiên sắp nổi cơn thịnh nộ, làm cho ta cảm thấy có một sự cầu cứu, một lời khẩn thiết báo hiệu một điều gì. Tiếng chim báo hiệu bão tới, hay tiếng chim lạc bầy trong gió cuốn? Trước sự cô đơn của mình chim cất lên tiếng kêu thảm thiết. Tâm trạng của nhà thơ hay chính hoàn cảnh của chim? Nhà thơ cảm nhận được điều ấy hay chính nhà thơ đang cảm nhận lòng mình? Có lẽ trong sự cô đơn, Tố Hữu đã cảm nhận như thế. Tâm trạng của nhà thơ lại trở về với sự buồn bã của tiếng dơi chiều đập cánh. Màu buồn vẫn nổi lên làm cho cảnh vật hiu hắt.

Đâu đâu văng vẳng tiếng lạc ngựa của một người hành khách đường xa. Bên giếng lạnh ngựa dừng lại, chắc có lẽ uống nước. Tiếng chuông vang lên xa gần và người chiến sĩ nghe được. Tiếng động như xoáy vào lòng nhà thơ, khơi lên một niềm khát vọng tự do. Nhà thơ nghĩ mình có thể như chú ngựa kia, tự do, tung vó. Mỗi tiếng lạc là mỗi hồi chuông dội vào lòng nhà thơ, nghe thúc giục, réo gọi. Chính trong lúc này, nhà thơ mới cảm nhận hết sự bưng bít của nhà tù. Sự cảm nhận ấy liên tục cho đến khi tác giả nghe văng vẳng tiếng guốc, trên đường xa.

Tiếng guốc – một hình ảnh giản dị – mộc mạc, đáng yêu biểu tượng cho người con gái. Cô gái Huế xinh xinh trên đường xa, tiếng guốc biểu hiện cho sự hòa bình, chosự hạnh phúc bởi vì nó là âm thanh của đời thường đối lập với cái im ìặng ghê rợn chốn tù ngục giam hãm con người. Tiếng guốc vang vang, nhỏ dần làm lòng người trong ngục nao nao. Thế là nhà thơ đả cảm nhận ra sự có mặt của con người. Tất cả sự cô đơn dàn trải trong lòng nhà thơ, như được tiếng guốc xóa sạch. Tiếng guốc đưa vào lòng người chiến sĩ một sức mạnh, một tình cảm được phục sinh, một niềm an ủi xóa đi bao chuỗi ngày cô đơn buồn tẻ. Đoạn thơ là một bức tranh của tâm trạng cô đơn. Người thanh niên bước đầu bị vùi thân nơi tù ngục không thể tránh khỏi những cảm giác ấy.

Dat Tuan
Dat Tuan
Trả lời 8 năm trước
Tố Hữu – cái tên gọi thân quen đã đi vào lịch sử văn học Việt Nam như một biểu tượng của thơ ca cách mạng. Mồi lời thơ tác giả viết ra đều tràn đầy nhuệ khí yêu nước, thấm nhuần tình cảm cách mạng. Với giọng thơ vừa bồi hồi náo nức, vừa mạnh mẽ thiết tha, người đọc dã cảm nhận được cái tôi – cái tôi công dân, cái tôi chiến sĩ của một thanh niên cách mạng đồng thời cũng là cái tôi trữ tình mới mẻ, trẻ trung dạt dào và tràn đầy cảm hứng lãng mạn. "Tâm tư trong tù" là một bài thơ như thế, mà có lẽ đoạn trích sau đây là đoạn hay nhất, xúc động nhất của cả bài thơ:

"Cô đơn thay là cảnh thân tủi
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi vệ…

"Tâm tư" – ấy là tâm sự, tình cảm và tư tưởng của Tố Hữu trong những ngày đầu bị giam ở nhà lao Thừa Thiên (Huế). Với một người bình thường thì tâm sự ấy có thể là lời nỉ non, cầu khổ hay chua chát; nhưng với Tố Hữu thì không. Đọc bài thơ ta đã phải bất ngờ trước những cảm nhận tinh tế và một giọng thơ chân thành, tha thiết của tác giả:
"Cô đơn thay là cảnh thân tù!
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu"
Bao trùm lên khổ thơ là cả một tâm trạng "cô đơn". Lần đầu tiên gặp "cảnh thân tù" Tố Hữu cảm thây cô đơn, thèm khát cuộc sống rộn rã bên ngoài. Và người thanh niên ấy đã hướng ra cuộc sống bên ngoài bằng đôi tai của mình để quên đi cảnh hiện tại. Với cảm nhận tinh tế nhà thơ đã nghe được nhịp đời đang "lăn náo nức”, cảm nhận được cuộc sống bên ngoài thật là "vui sướng biết bao". Từng câu, từng chữ đầy nuối tiếc, thể hiện tột cùng sự khao khát tự do.
Sở dĩ Tố Hữu cô đơn và phải hướng ra cuộc sống bên ngoài đế quên đi thực tại là vì: trước dó không lâu, tác giả còn là một học sinh, một người thanh niên:
"Bâng khuâng đứng giữa dôi dòng nước Chọn một dòng hay đề nước trôi"
Rồi khi được giác ngộ cách mạng, chọn cho mình một con đường đi đúng đắn, tác giả đã hăng hái hoạt động cách mạng với niềm vui dạt dào trong trái tim tuổi thanh xuân:
" vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo
Bốn phương trời và sau dấu muôn chân
Củng như tôi tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng"
("Hy vọng", 1938)
Tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trẻ là "một vườn hoa lá. Rất đậm hương và rộn tiếng chim". Cuộc đời phía trước là mùa xuân bát ngát: "Bạn đời cà vui lắm cả trời hồng". Với sức sống mãnh liệt ở tuổi đời mười tám, đôi mươi:
"Hai mươi tuổi tỉm đang dào dạt máu
Hai mươi tuổi hồn quay trong gió bão
Gân đang săn và thớ thịt căng da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa"
Tố Hữu đang nhìn cuộc đời bằng màu hồng, đang hăm hở bước vào cuộc chiến đấu với tinh thần cách mạrg đầy nhiệt huyết. Vậy mà bồng chốc đã bị nhốt giữa "bốn tường khắc khổ" bị cùm trói, nằm trong xà lim lạnh lẽo tối tám, ngăn cách hoàn toàn với thế giới bên ngoài thì làm sao tác giả tránh khỏi cảm giác cô đơn. Và không chỉ cô đơn mà còn bực bội, u uất.
Trong bài "Khi con tu hú", Tố Hữu cũng đã thể hiện tâm trạng đó:
"Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chìm tu hú ngoài trời cứ kêu"
Song, nỗi niềm "cô đơn thay là cành thân tù" ở đây không phải là lời than thở kêu rên hèn yếu. Đó là sự xác nhận – xác nhận một sự thật phũ phàng. Mấy ai chưa phải sống "cảnh thân tù" mà hiểu hết nỗi đời cực nhọc "nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại". Nhưng điều quí giá nhất ở đây là tác giả xác định đúng cảnh tù đày:
‘Đời cách mạng từ khi tôi đà hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tủ đầy
Là gươm kề tận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa"
Xác định để chấp nhận. Vì yêu nước, gắn bó với cách mạng nên người thanh niên ấy vẫn nguyện; Quyểt hi sinh phá tan hết gông xiểng Cho TỔ quốc muôn muôn năm độc lập”
Nếu không có tâm lòng ham sống thiết tha yêu.đời và tinh thần nhiệt huyết cách mạng thì làm sao Tô Hữu có thể bộc lộ tâm trạng cô đơn của mình bằng những câu thơ hay đến thế. Và điều thể hiện rõ nhất sự thiết tha với đời, muôn hòa nhập với thế giới bên ngoài để quên đi cảnh cô dơn ấy, tác giả đã hướng ra cuộc sống bên ngoài bằng thính giác:
"Nghe chim reo trong gió mạnh lên triều Nghe vội vã tiếng dơi chiều đập cánh Nghe lạc ngưa rùng chân bên giếng lanh Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về" Với "tai mở rộng" và "lòng sôi rạo rực", người thanh niên chăm chú và hào hứng đón nhận mọi âm thanh, mọi diễn biến, luôn ước muốn nắm bắt được vi mạch cuộc sông bằng mọi giác quan, bằng tất cả tâm hồn mình. Cuộc đời đang "lăn", nhịp đời đang trôi và tiếng đời đang vang xa. Hiện thực là đây tiếng chim reo, tiếng dơi chiều đập cánh, tiếng lạc ngựa và cả tiếng guốc đi về. Đấy là âm thanh của cuộc sông hàng ngày mà người đời thường lãng quên. Thế nhưng với Tô’ Hữu đó lại là sợi chỉ hồng duy nhất nôi nhà thơ với cuộc sống bên ngoài. Nhà thơ đã chăm chú lắng nghe, trân trọng những hoạt động ấy mà tuởng tượng mạnh mẽ với cảnh hùng vĩ "gió mạnh lên triều", âm thanh vội vã của tiếng dơi chiều đập cánh và cả tiếng ngựa rùng chân để báo hiệu một nước "kiệu" mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bình dị và thân thuộc nhất vẫn là "tiếng guốc đi về một âm thanh nhỏ bé rất dễ bị lãng quên nhưng hình ảnh mộc mạc ấy lại có sức lay động lòng người một cách thấm thìa. Nếu như âm thanh của tiếng chim, tiếng gió và cả tiếng lạc ngựa rừng chân là những nốt nhac dạo đầu, khơi dòng tâm sự thì tiếng guốc nhỏ, to xuất hiện mới xoáy sâu vào trái tim con người. Bởi lẽ mọi âm thanh ấy còn xa lắm, lạnh lẽo lắm; chỉ có tiếng guốc bình dị thân thương mới gần gũi, mang hơi ấm của con người, đó mới là sự sông đích thực. Mới nghe qua ta tưởng tiếng guôc ấy lạc lõng giữa dòng đời, thậm chí còn tầm thựờng nữa. Nhưng càng đọc ta càng cảm nhận thấy tiếng guốc thân thuộc biết bao, gắn liền với mồ hôi và nước mắt của con người cần lao, cũng nhức nhôi như "một tiếng rao đêm” nghe được giữa đêm khuya qua song sắt nhà tù:
"Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi…
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
Tiếng em bước trên dường đêm nhỏ nhỏ
Nhưng cũng đủ cho lòng anh lắng rõ".
(Xà lim Qui Nhơn tháng 11 – 1941).
Tiếng guốc ấy gợi bao tình cảm của người thanh niên trong cảnh ngộ: thân tù cô đơn. Nghe tiếng guốc đi về mà người thanh niên thấy thèm khát được tự do, được trở về tổ ấm gia đình. Phải có sự cảm nhận tinh tế, một tâm hồn nhạy cảm thế nào, nhà thơ mới có thể nghe và tưởng tượng được cảnh ngoài phố vừa cụ thể vừa sinh động ấy được. Chỉ bằng thính giác mà nhà thơ đã cảm giác được âm thanh, hình tượng và cả cái lạnhđã thấm sâu vào làn nước ở đáy tầng sâu. Tác giả đã tạo nên hai cảnh dôi lập giữa tâm tư trong tù và cuộc sống bên ngoài. Nếu trong tù cô đơn, lẻ loi bao nhiêu thì cuộc sống bên ngoài là sự sống, hương thơm mật ngọt của đời bây nhiêu. Tuy nhiên trong hoàn cảnh tù đày, sự cô đơn ấy không hề làm cho người chiến sĩ cách mạng tàn lụi và nhỏ bé đi mà trái lại đó là động lực để thúc tỉnh, lay gọi và vươn tới, khẳng định một tâm thè giữ trọn "trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn". Nhà tù đầy rẫy những bất công tàn Lạo ấykhông thể uy hiếp được tinh thần, không thể giam hãm được tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản, tâm thế ấy vẫn một lòng với cách mạng, vẫn hiên ngang tranh đấu:

"Tu vì ta ba chục triệu người Cũng vì ba ngàn triệu trên đời".

tam tu trong tu to huu

Có thể nói đoạn thơ đã minh chứng cho phong cách nghệ thuật trữ tình chính trị của Tô" Hữu và nổi bật là cái "tôi" trữ tình. Nói về tâm tư, tình cảm, những trăn trở cũng như khát vọng của một thanh niên hừng hực khí thế cách mạng rất hợp lí, nồng nhiệt và tinh tế. Nhân vật trữ tình là "tôi" nhưng lại là cả một cộng đồng, tâm trạng của riêng, một con người trong tù ngục nhưng lại biểu hiện cho cuộc sông ngục tù của tất cả mỗi người Việt Nam thời ấy. Suy nghĩ và nhận thức của một người chiến sĩ trẻ luôn lắng nghe, trân trọng và nâng niu cuộc sống, khao khát tự do và tràn đầy nhiệt huyết cách mạng. "Tâm tư trong tu’ phản ảnh chân thực tình cảm và tâm trạng của người chiến sĩ trẻ trong những ngày đầu bị đọa đầy trong ngục tối: đó là nỗi cô đơn nhưng đích thực là khúc tráng ca về tự do. Bài thơ đẹp vì người chiến sĩ ấy đã sông tuyệt đẹp trong "Máu lửa – xiềng xích – giải phỏng".