Quy luật lượng - chất là một trong những quy luật cơ bản nhất của triết học Mac - Lênin. Có 2 khái niệm trung tâm của quy luật đó là lượng và chất. Quy luật phát biểu như sau, lượng biến đổi dần dần, khi đạt đến một giới hạn nào đó thì nó sẽ thực hiện một "bước nhảy" để biến đổi về chất. Đây là một quy luật rất cơ bản và quan trọng mà mỗi người phải hiểu để hiểu được quy luật phát triển của thế giới, các quy luật phát triển của bản thân để hiểu được thế nào là quá trình học tập, làm thế nào để học tập tốt. Khi học các khái niệm, quy luật của triết học, chúng ta nên tìm thật nhiều ví dụ của nó trong cuộc sống, càng nhiều ví dụ càng tốt, khi phân tích được các ví dụ đó nghĩa là chúng ta đã hiểu được vì sao sự vật nào đó lại phát triển như vậy. Nếu chúng ta học triết học mà không áp dụng nó vào thực tế cuộc sống thì tất cả sẽ nhanh chóng bay khỏi đầu chúng ta sau kỳ thi ^^
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, sự phát triển nào chúng đều chứa đựng quy luật lượng chất này cả, vấn đề là chúng ta có tìm ra được nó hay không thôi. Mình có thể lấy và phân tích cho bạn một vài ví dụ như sau.
- Ví dụ điển hình nhất đó là quá trình học tập. Việc chuyển từ học phổ thông sang học đại học được coi là một bước chuyển về chất. Khi chúng ta học phổ thông, chúng ta tích lũy kiến thức dần dần, ngày này qua ngày khác, sau một thời gian dài chúng ta sẽ học hết toàn bộ chương trình, nắm vững các kiến thức đó và chúng ta sẽ tiến hành cuộc thi đại học. Đối với những người đã tích lũy đủ những kiến thức cần thiết họ sẽ vượt qua kỳ thi và trở thành sinh viên đại học. Đối với những người khác do việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng, chưa đủ nhiều, chưa sâu sắc thì họ sẽ chưa vượt qua được kỳ thi, họ có thể sẽ mất thêm thời gian để tích lũy thêm bằng cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ không thi nữa. Đây là một ví dụ điển hình của quy luật lượng chất.
Mình có thể lấy một ví dụ nữa về tình yêu. Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có một chút gì đó mến cảm với nhau lúc đầu thôi chứ khó có thể nói là đã yêu nhau được (Trừ tình yêu kiểu sét đánh ^^). Sau khi đã quen biết nhau, họ bắt đầu đi lại nhiều hơn, nói chuyện với nhau nhiều hơn, cùng nhau làm một số việc như cùng học, cùng đi chơi... qua những chuyện đó họ sẽ dần dần hiểu nhau hơn, hiểu về con người, tính cách, cá tính và nét duyên dáng đáng yêu của nhau hơn. Dần dần trong họ bắt đầu nảy nở tình yêu vì thấy rằng đối phương là một người rất đáng yêu trong các hoàn cảnh của cuộc sống. Việc tích lũy về những hiểu biết, những tình cảm, cảm xúc về nhau đó được xem là việc tích lũy về lượng. Khi những sự hiểu biết đó, những tình cảm đó đủ lớn, tình cảm đó sẽ có thể chuyển thành tình yêu. Nhưng thường để chính thức được công nhận là người yêu, họ thường qua một bước gọi là ngỏ lời yêu và nhận lời yêu. Đây được xem là một "bước nhảy" trong quan hệ giữa hai người chuyển từ chất này (tình bạn) qua chất khác (tình yêu).
Có một điều đáng lưu ý ở đây (cũng là một lưu ý hết sức quan trọng trong triết học về quy luật lượng chất này là xác định xem lượng đã đủ chưa để thực hiện bước nhảy vì nếu tích chưa đủ lượng mà thực hiện bước nhảy thì sẽ thất bại, nhưng nếu đã đủ lượng rồi mà không tạo điều kiện để thực hiện bước nhảy thì sẽ không biến đổi được về chất). Đối với tình yêu cũng tương tự vậy, cần phải xem là tình cảm của mình đã đủ lớn chưa để có thể chuyển sang tình yêu, và nếu mà đã đủ rồi mà mình không dám tỏ bày thổ lộ với họ để có người khác đến cướp mất thì sẽ là một điều đáng tiếc lớn.
Và đến khi họ quyết định sẽ cưới nhau, đó thực sự là một bước nhảy lớn trong quan hệ của hai người, nó cũng được tuân thủ các quy luật của lượng chất, khi sự hiểu biết về nhau, hiểu và thông cảm cho nhau, hiểu tính cách, hiểu cuộc sống, thấy rằng hợp với mình và tình cảm của 2 người dành cho nhau đủ lớn để đảm bảo sẽ chiến thắng được những sóng gió của cuộc đời thì họ sẽ tiến đến hôn nhân.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ đơn giản dễ thấy và dễ phân tích trong cuộc sống về quy luật lượng chất. Bạn có thể tìm hiểu và phân tích thêm, trong tất cả các hiện tượng nó đều bao hàm quy luật này.
cỳytytfujkn
Đây bạn nhé:
Nội dung quy luật
*Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thườngxuyên biến đổi. Song, hai mặt đó không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau mộtcách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi sựvật đang tồn tại.
* Lượng đổi dẫn tới chất đổiBất kỳ sự thay đổi nào của sự vật cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng, phải tích lũy đủ về lượng mới làm cho sự vật thay đổi về chất, sự tích lũy về lượng nó là
cả một quá trình do đó nó có nhiều giai đoạn khác nhau để dẫn đến sự thay đổi vềchất, sự thay đổi về lượng vẫn chưa làm thay đổi về chất người ta gọi là độ.
- Độ là sự thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn sự thay đổi vềlượng đã diễn ra nhưng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật.Để làm thay đổi chất thì lượng phải tăng lên hoặc giảm đi đến một mức độnhất định, sự tăng lên giảm đi về lượng để cho chất căn bản thay đổi người ta gọi làđiểm nút.
- Điểm nút là sự thay đổi về lượng của sự vật đến một giới hạn nhất định sẽlàm cho chất của sự vật thay đổi.Sự thay đổi về chất do sự tích lũy về lượng trước đó gây ra người ta gọi làbước nhảy.- Bước nhảy là giai đoạn chuyển từ chất cũ sang chất mới, bước nhảy kếtthúc một giai đoạn phát triển nhưng lại mở đầu một giai đoạn phát triển mới, lại tạolập Độ, Điểm nút, Bước nhảy.Căn cứ vào nhịp điệu có:+ Bước nhảy đột biến là bước nhảy được thực hiện trong thời gian rất ngắnlàm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản cảu sự vật.
Ví dụ: Uranium 235 được tăng tới hạn (1kg) thì ngay lập sẽ xảy ra vụ nổnguyên tử+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằngcách tích lũy dần những nhân tố của chất mới, loại bỏ dần những nhân tố của chấtcũ. Ví dụ: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt nam...Căn cứ vào quy mô có:+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt,các yếu tố cấu thành sự vật.VD: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nghĩa rộng
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, nhữngyếu tố riêng lẻ của sự vật.VD: Những kỳ thi học phần trong chương trình học thạc sĩ* Chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi của lượngChất mới ra đời sẽ tác động tới số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu… củalượng (Làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu vận độngcủa sự vật).Tóm tắt nội dung quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng vàchất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ làm thayđổi chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thayđổi của lượng mới, tạo thành quá trình vận động phát triển liên tục của sự vật.
Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất.
a. Khái niệm chất và lượng
- Khái niệm chất của sự vật hiện tượng:
Chất của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính để nói lên nó là cái gì, phân biệt nó với cái khác.
+ Chất là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật.
Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và thuộc tính của muối là: Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn…
Thể kết tinh, tan trong nước, vị mặn là những tính chất (thuộc tính) quy định vốn có của sự vật (muối) không lệ thuộc ý muốn của con người do vậy mang tính khách quan.
+ Sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính.
Không phải là sự cộng lại của các thuộc tính và cũng không phải là sự xếp đặt bên cạnh nhau của các thuộc tính mà là sự liên hệ chặt chẽ, gắn bó, tác động, quy định lẫn nhau cùng tồn tại trong sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Khi ta nói đến Đường ăn là nói đến chất của Đường (C6H12O6) và thuộc tính của đường là: Thể kết tinh, màu trắng, tan trong nước, có vị ngọt…
Chú ý: Sự vật hiện tượng có thể có một chất hoặc nhiều chất tuỳ theo các quan hệ vì sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính, nhưng mỗi một thuộc tính cũng có thể coi là một chất.
Ví dụ: Học viên trường TCKT Xe-Máy là nói đến chất của người học viên trường TCKT Xe-Máy, chất đó được thể hiện qua các bộ phận: Học viên TCKT ôtô; học viên lái xe các hạng C, D, E; học viên trung cấp trạm nguồn điện….và mỗi bộ phận học viên TCKT ô tô; bộ phận học viên lái xe các hạng C, D, E; bộ phận học viên trạm nguồn điện cũng có thể coi là một chất.
-Khái niệm lượng của sự vật hiện tượng:
Lượng của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó như về độ lớn, về quy mô, về trình độ, về tốc độ, về màu sắc.
Như vậy lượng của sự vật chỉ biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó.
Ví dụ: Lượng của học viên trường TCKT Xe-Máy
+ Lượng của sự vật cũng mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật.
Ví dụ: Khi ta nói đến lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử nước là H20 nghĩa là gồm hai nguyên tử hidrô và một nguyên tử ôxi.
+ Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác bằng đơn vị đo lường, nhưng có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng hoá ta mới xác định được.
Ví dụ: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng của cơ thể hay chiều cao của một con người...
Có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng chúng ta mới nhận thức được như lượng tri thức hiểu biết của một lớp học cao hay thấp....
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ của một lớp học có học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối quan hệ lãnh đạo thì học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên khác nhau về chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người học viên năm thứ nhất với người học viên năm thứ hai là nói đến chất của người học viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Nội dung khái quát của quy luật: Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất, cách thức vận động phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng đi từ sự biến đổi dần dần về lượng đến một độ nhất định mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Chất mới ra đời lại tạo điều kiện mới, khả năng mới cho sự biến đổi về lượng.
- Mọi sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất giữa chất và lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy không có chất lượng nói chung tồn tại tách rời nhau)
Ví dụ: Khi nói lớp A có 20 học viên là nói đến sự thống nhất giữa chất và lượng của lớp đó.
- Chất và lượng bao giờ cũng thống nhất trong độ nhất định.
Độ chính là khái niệm để chỉ phạm vi giới hạn, trong đó sự biến đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật vẫn là nó chưa là cái khác.
Ví dụ: Người học viên TCKT ôtô khi vào trường học tập, trong hai năm học người học viên đó phải tích lũy những kiến thức những học phần theo quy định. Sự tích lũy những kiến thức đó chính là sự thay đổi về lượng nhưng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Khoảng hai năm học tập và tích lũy đó gọi là độ.
Tại thời điểm xẩy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi về chất.
Bước nhảy là sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra. Nói cách khác bước nhảy chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra.
Ví dụ: Người học viên TCKT ô tô sau khi đã tích lũy đầy đủ các học phần theo quy định, có đủ điều kiện và thi tốt nghiệp ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật. Từ người học viên trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật gọi là bước nhảy.
Tại thời điểm bế giảng nhận quyết định ra trường gọi là điểm nút.
- Chất mới ra đời tạo điều kiện mới, khả năng mới cho lượng biến đổi.
Chất mới được bổ sung những đặc trưng mới, những yếu tố mới. Mặt khác kế thừa được những yếu tố tích cực của sự vật cũ do đó nó thúc đẩy lượng mới phát triển nhanh hơn, mạnh hơn so với lượng của chất cũ.
Ví dụ: Người học viên khi ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật sẽ được bổ sung những yếu tố mới về mặt phẩm chất đạo đức, về năng lực chuyên môn... sẽ giúp người nhân viên biến đổi nhanh hơn về chất.
Chú ý: + Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất thường gắn với những điều kiện nhất định.
+ Không phải bất kỳ sự biến đổi nào về lượng đều dẫn đến sự thay đổi về chất chỉ khi thuộc tính căn bản thay đổi thì chất mới thay đổi.
Tóm lại: Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt lượng và chất trong một sự vật hiện tượng. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi vượt độ phá vỡ chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi đến một giới hạn nào đó lại phá vỡ chất mà nay đã cũ đi đang kìm hãm. Cứ như vậy quá trình tác động biện chứng giữa hai mặt lượng và chất tạo lên cách thức, trạng thái vận động phát triển của sự vật.
Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất.
a. Khái niệm chất và lượng
- Khái niệm chất của sự vật hiện tượng:
Chất của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính để nói lên nó là cái gì, phân biệt nó với cái khác.
+ Chất là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật.
Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và thuộc tính của muối là: Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn…
Thể kết tinh, tan trong nước, vị mặn là những tính chất (thuộc tính) quy định vốn có của sự vật (muối) không lệ thuộc ý muốn của con người do vậy mang tính khách quan.
+ Sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính.
Không phải là sự cộng lại của các thuộc tính và cũng không phải là sự xếp đặt bên cạnh nhau của các thuộc tính mà là sự liên hệ chặt chẽ, gắn bó, tác động, quy định lẫn nhau cùng tồn tại trong sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Khi ta nói đến Đường ăn là nói đến chất của Đường (C6H12O6) và thuộc tính của đường là: Thể kết tinh, màu trắng, tan trong nước, có vị ngọt…
Chú ý: Sự vật hiện tượng có thể có một chất hoặc nhiều chất tuỳ theo các quan hệ vì sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính, nhưng mỗi một thuộc tính cũng có thể coi là một chất.
Ví dụ: Học viên trường TCKT Xe-Máy là nói đến chất của người học viên trường TCKT Xe-Máy, chất đó được thể hiện qua các bộ phận: Học viên TCKT ôtô; học viên lái xe các hạng C, D, E; học viên trung cấp trạm nguồn điện….và mỗi bộ phận học viên TCKT ô tô; bộ phận học viên lái xe các hạng C, D, E; bộ phận học viên trạm nguồn điện cũng có thể coi là một chất.
-Khái niệm lượng của sự vật hiện tượng:
Lượng của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó như về độ lớn, về quy mô, về trình độ, về tốc độ, về màu sắc.
Như vậy lượng của sự vật chỉ biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó.
Ví dụ: Lượng của học viên trường TCKT Xe-Máy
+ Lượng của sự vật cũng mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật.
Ví dụ: Khi ta nói đến lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử nước là H20 nghĩa là gồm hai nguyên tử hidrô và một nguyên tử ôxi.
+ Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác bằng đơn vị đo lường, nhưng có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng hoá ta mới xác định được.
Ví dụ: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng của cơ thể hay chiều cao của một con người...
Có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng chúng ta mới nhận thức được như lượng tri thức hiểu biết của một lớp học cao hay thấp....
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ của một lớp học có học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối quan hệ lãnh đạo thì học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên khác nhau về chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người học viên năm thứ nhất với người học viên năm thứ hai là nói đến chất của người học viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Nội dung khái quát của quy luật: Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất, cách thức vận động phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng đi từ sự biến đổi dần dần về lượng đến một độ nhất định mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Chất mới ra đời lại tạo điều kiện mới, khả năng mới cho sự biến đổi về lượng.
- Mọi sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất giữa chất và lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy không có chất lượng nói chung tồn tại tách rời nhau)
Ví dụ: Khi nói lớp A có 20 học viên là nói đến sự thống nhất giữa chất và lượng của lớp đó.
- Chất và lượng bao giờ cũng thống nhất trong độ nhất định.
Độ chính là khái niệm để chỉ phạm vi giới hạn, trong đó sự biến đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật vẫn là nó chưa là cái khác.
Ví dụ: Người học viên TCKT ôtô khi vào trường học tập, trong hai năm học người học viên đó phải tích lũy những kiến thức những học phần theo quy định. Sự tích lũy những kiến thức đó chính là sự thay đổi về lượng nhưng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Khoảng hai năm học tập và tích lũy đó gọi là độ.
Tại thời điểm xẩy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi về chất.
Bước nhảy là sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra. Nói cách khác bước nhảy chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra.
Ví dụ: Người học viên TCKT ô tô sau khi đã tích lũy đầy đủ các học phần theo quy định, có đủ điều kiện và thi tốt nghiệp ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật. Từ người học viên trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật gọi là bước nhảy.
Tại thời điểm bế giảng nhận quyết định ra trường gọi là điểm nút.
- Chất mới ra đời tạo điều kiện mới, khả năng mới cho lượng biến đổi.
Chất mới được bổ sung những đặc trưng mới, những yếu tố mới. Mặt khác kế thừa được những yếu tố tích cực của sự vật cũ do đó nó thúc đẩy lượng mới phát triển nhanh hơn, mạnh hơn so với lượng của chất cũ.
Ví dụ: Người học viên khi ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật sẽ được bổ sung những yếu tố mới về mặt phẩm chất đạo đức, về năng lực chuyên môn... sẽ giúp người nhân viên biến đổi nhanh hơn về chất.
Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất của hai mặt đối lập lượng và chất.
a. Khái niệm chất và lượng
- Khái niệm chất của sự vật hiện tượng:
Chất của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính để nói lên nó là cái gì, phân biệt nó với cái khác.
+ Chất là khái niệm chỉ tính quy định vốn có của sự vật.
Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và thuộc tính của muối là: Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn…
Thể kết tinh, tan trong nước, vị mặn là những tính chất (thuộc tính) quy định vốn có của sự vật (muối) không lệ thuộc ý muốn của con người do vậy mang tính khách quan.
+ Sự kết hợp hữu cơ giữa các thuộc tính.
Không phải là sự cộng lại của các thuộc tính và cũng không phải là sự xếp đặt bên cạnh nhau của các thuộc tính mà là sự liên hệ chặt chẽ, gắn bó, tác động, quy định lẫn nhau cùng tồn tại trong sự vật hiện tượng.
Ví dụ: Khi ta nói đến Đường ăn là nói đến chất của Đường (C6H12O6) và thuộc tính của đường là: Thể kết tinh, màu trắng, tan trong nước, có vị ngọt…
Chú ý: Sự vật hiện tượng có thể có một chất hoặc nhiều chất tuỳ theo các quan hệ vì sự vật hiện tượng có nhiều thuộc tính, nhưng mỗi một thuộc tính cũng có thể coi là một chất.
Ví dụ: Học viên trường TCKT Xe-Máy là nói đến chất của người học viên trường TCKT Xe-Máy, chất đó được thể hiện qua các bộ phận: Học viên TCKT ôtô; học viên lái xe các hạng C, D, E; học viên trung cấp trạm nguồn điện….và mỗi bộ phận học viên TCKT ô tô; bộ phận học viên lái xe các hạng C, D, E; bộ phận học viên trạm nguồn điện cũng có thể coi là một chất.
-Khái niệm lượng của sự vật hiện tượng:
Lượng của sự vật là khái niệm chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó như về độ lớn, về quy mô, về trình độ, về tốc độ, về màu sắc.
Như vậy lượng của sự vật chỉ biểu thị con số những thuộc tính, tổng số những bộ phận cấu thành nó.
Ví dụ: Lượng của học viên trường TCKT Xe-Máy
+ Lượng của sự vật cũng mang tính khách quan, nó là cái vốn có của sự vật.
Ví dụ: Khi ta nói đến lượng nguyên tố hóa học trong một phân tử nước là H20 nghĩa là gồm hai nguyên tử hidrô và một nguyên tử ôxi.
+ Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác bằng đơn vị đo lường, nhưng có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng hoá ta mới xác định được.
Ví dụ: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng của cơ thể hay chiều cao của một con người...
Có những lượng phải bằng khái quát, trừu tượng chúng ta mới nhận thức được như lượng tri thức hiểu biết của một lớp học cao hay thấp....
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ của một lớp học có học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên là nói đến lượng của một lớp học. Nhưng trong mối quan hệ lãnh đạo thì học viên là đảng viên và học viên là đoàn viên khác nhau về chất.
Ví dụ: Trong mối quan hệ giữa người học viên năm thứ nhất với người học viên năm thứ hai là nói đến chất của người học viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất
Nội dung khái quát của quy luật: Mọi sự vật hiện tượng đều là thể thống nhất giữa hai mặt lượng và chất, cách thức vận động phát triển của sự vật hiện tượng bao giờ cũng đi từ sự biến đổi dần dần về lượng đến một độ nhất định mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Chất mới ra đời lại tạo điều kiện mới, khả năng mới cho sự biến đổi về lượng.
- Mọi sự vật hiện tượng đều là sự thống nhất giữa chất và lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy không có chất lượng nói chung tồn tại tách rời nhau)
Ví dụ: Khi nói lớp A có 20 học viên là nói đến sự thống nhất giữa chất và lượng của lớp đó.
- Chất và lượng bao giờ cũng thống nhất trong độ nhất định.
Độ chính là khái niệm để chỉ phạm vi giới hạn, trong đó sự biến đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất, sự vật vẫn là nó chưa là cái khác.
Ví dụ: Người học viên TCKT ôtô khi vào trường học tập, trong hai năm học người học viên đó phải tích lũy những kiến thức những học phần theo quy định. Sự tích lũy những kiến thức đó chính là sự thay đổi về lượng nhưng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Khoảng hai năm học tập và tích lũy đó gọi là độ.
Tại thời điểm xẩy ra bước nhảy gọi là điểm nút.
Điểm nút là điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi về chất.
Bước nhảy là sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra. Nói cách khác bước nhảy chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất do những thay đổi về lượng trước đó sinh ra.
Ví dụ: Người học viên TCKT ô tô sau khi đã tích lũy đầy đủ các học phần theo quy định, có đủ điều kiện và thi tốt nghiệp ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật. Từ người học viên trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật gọi là bước nhảy.
Tại thời điểm bế giảng nhận quyết định ra trường gọi là điểm nút.
- Chất mới ra đời tạo điều kiện mới, khả năng mới cho lượng biến đổi.
Chất mới được bổ sung những đặc trưng mới, những yếu tố mới. Mặt khác kế thừa được những yếu tố tích cực của sự vật cũ do đó nó thúc đẩy lượng mới phát triển nhanh hơn, mạnh hơn so với lượng của chất cũ.
Ví dụ: Người học viên khi ra trường trở thành người nhân viên chuyên môn kỹ thuật sẽ được bổ sung những yếu tố mới về mặt phẩm chất đạo đức, về năng lực chuyên môn... sẽ giúp người nhân viên biến đổi nhanh hơn về chất.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại phát biểu rằng:Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.