Qui trình một đám cưới như thế nào?

tun cua di
tun cua di
Trả lời 13 năm trước

Những nghi lễ trước ngày trước ngày rước dâu, lễ Lạy xuất giá, sau đám cưới 3 ngày. Những thông tin sau sẽ rất hữu ích cho các bạn trong ngày trọng đại của đời mình.

1 ngày trước ngày rước dâu

Trước cổng chính ở giữa có khung chữ Vu Qui của nhà gái hay Tân Hôn của nhà trai.


Nhà gái, luôn luôn đãi ăn vào ngày hôm trước, còn nhà trai ngày hôm trước chỉ nhóm họ, tức là chỉ đãi ăn những người trong thân tộc, những người bà con ruột thịt xa gần tụ hội lại để sắp đặt công việc ngày hôm sau đi rước dâu. Khi rước dâu về, nhà trai mới đãi ăn, vừa đãi ăn nhà gái, vừa đãi ăn khách mời.

Thường vào đêm này, người ta tập cho chú rễ nghi thức lạy gia tiên và lạy ông bà cha mẹ. Lạy gia tiên tức là lạy bàn thờ ông bà thì lạy bốn lạy, còn lạy ông bà cha mẹ thân tộc còn sống chỉ lạy hai lạy. Cách lạy họ không phải chấp hai tay lại mà phải cung hai cánh tay, ngón giữa và ngón đeo nhẫn tay mặt giáp mí tay trái, tạo thành một cung tròn để xá, để lạy.

Nhà trai chuẩn bị gồm có một “Khai trầu rượu”, trong khai ấy có một cái nhạo đựng rượu với 2 hay 4 cái chun uống rượu, một đĩa gồm mấy lá trầu têm vôi sẵn, mấy miếng cau tươi, có thể đậy lên trên một miếng vãi đỏ, một “Khai hộp” là một cái khai có hai cái hộp đồng thau hình ống, có nắp, dùng để đựng nữ trang và tiền đồng, một mâm trầu, mâm nầy trong người ta để cau và trầu, cau vài chục trái, trầu vài chục lá đều là số chẵn, rồi người ta đậy kín lại, làm dấu để không ai được mở ra, chờ cho đến ba ngày sau, cô dâu và chú rễ trở về nhà cô dâu làm lễ “Dở mâm trầu”. Cho nên thường người ta dùng giấy bông cái hình búp sen, đủ lớn chụp lên trên mâm trầu, có một mâm đựng một đôi đèn sáp đỏ, có bắt bông rồng, phụng, tượng trưng cho câu chữ “Loan phụng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp”, ngoài ra còn có những mâm rượu, mâm trà, mâm trái cây, mâm bánh mứt, toàn bộ những mâm này phải là số chẵn, tượng trưng cho vợ chồng mới cưới, đủ đôi, chẵn cập, những mâm nầy có thể để trần, có thể phủ giấy màu, có thể dùng cái quả có nắp đậy lại.

Đêm Lạy xuất giá

Ở nhà gái, khi khách khứa đã về hết rồi, khoảng 9, 10 giờ đêm, người ta cử hành lễ “Lạy xuất giá“. Cô dâu đến trước bàn thờ ông bà lạy bốn lạy, kế đó lạy cha, mẹ hai lạy, sau đó theo thứ tự từ ông bà bên nội, bác, cô dượng, chú thím, anh, chị. Sau đó tới bên ngoại cũng theo thứ tự ông bà, cậu mợ, dì dượng… những người có đủ cập vợ chồng, cô dâu lạy chung 2 lạy, những người không đủ vợ chồng cũng lạy 2 lạy. Trong dịp này, những người trong thân tộc dự lễ “Lạy xuất giá” của cô dâu, đều có mừng cho cô dâu hoặc nữ trang, hoặc quà hoặc tiền. Tiền hay quà cho cô dâu để làm của mang theo về nhà chồng.

Cách lạy thì cô dâu sau khi xá rồi ngồi xuống, hai chân thu về một bên, xuôi ra phía sau, ngồi thẳng rồi chấp hai tay lại vừa xá xuống, vừa dang hai tay ra, vữa cúi đầu vừa khom lưng xuống một chút rồi cất đầu lên, thân thẳng lên, hai tay chập lại trước ngực để lạy tiếp, nếu đã lạy đủ hai hay bốn lạy thì lấy hai tay chống xuống nền nhà, đứng lên rồi xá một xá.

Ngày rước dâu

Ngày rước dâu, nhà trai đi tới nhà gái gồm cha mẹ chú rễ, vài cập vợ chồng người lớn tuổi, chú rễ, một rễ phụ, một số thanh niên, một số thiếu nữ đủ để bưng mâm và tổng số người đi sao cho chẵn.

Khi đến nhà gái, Rễ phụ bưng mâm trầu rượu vào đặt ở chỗ bàn có những người lớn tuổi ngồi, rót rượu ra chun, xong rồi mời rượu những bậc “trên trước” để trình là nhà trai đã tới, xin cho phép vào làm lễ “Rước dâu”. Nếu nhà gái thấy đủ phép, nói với Rễ phụ mời nhà trai vào, có nơi nhà gái ra cổng mời nhà trai vào.

Khi nhà trai vào, đi trước là Rễ phụ với khai trầu rượu, kế đến là chủ hôn, chủ hôn có thể là cha mẹ hay trưởng tộc hoặc một người trong thân tộc, vợ chồng đầy đủ, nói năng hoạt bát, sau chủ hôn là chú rễ, sau chú rễ là những người bưng các mâm lễ vật, sau đó là những người đi rước dâu. Vào nhà, những mâm lễ vật để trước bàn thờ, nhà gái sẽ mời nhà trai ngồi vào những vị trí riêng biệt, nhất là hai bên suôi gia sẽ ngồi đối diện nhau. Chú rễ và rễ phụ sẽ đứng gần bàn thờ, và khi mọi người ổn định chỗ ngồi xong, rễ phụ sẽ rót rượu ra – Khi rót rượu không bao giờ rót đầy, vì có người uống, có người chỉ nhấp mép một chút cho phải phép, nhưng dù chun rượu còn hay không, người rễ phụ cũng rót một chút rượu mới – Người chủ hôn nhà trai xin phép chủ hôn nhà gái để tiến hành cuộc lễ, trước tiên trình lễ vật là đôi đèn cầy, mâm trầu cau, rượu, trà, bánh mứt, trái cây sau đó là trình nữ trang và số tiền đồng, là số tiền nhà trai phụ cho nhà gái làm lề Vu quy.

Khi nhà gái đã đồng ý chấp nhận lễ vật rồi, cha mẹ cô dâu gọi cô dâu ra chào họ nhà trai. Cô dâu mặc áo dài, trang điểm và đeo những nữ trang nhà trai đã nộp “Sính lễ” lúc đám hỏi.

Tưởng cũng nên nói thêm, khi “Đám hỏi”, nhất thiết nhà gái nào cũng đòi nhà trai phải nộp sính lễ một đôi “hoa tai”, còn gọi là “đôi bông” bởi vì ngày xưa, người ta quan niệm người con gái như một cái hoa, nên nhà trai phải trao cái hoa tai ấy.

Trước khi đám cưới, nhà gái đòi tiền đồng và có thể đòi thêm nữ trang cho cô dâu, thường khi không đòi thêm nữ trang, nhưng đàng trai cũng cho thêm nữ trang. Nên trước khi làm lễ gia tiên, mẹ cô dâu hoặc nhà gái chọn một người đàn bà đeo nữ trang nhà trai vừa mới cho thêm cô dâu, người đàn bà này vợ chồng phải đủ đôi, có nhiều đức tính tốt, gia đình hạnh phúc, để cho cô dâu nương nhờ đức hạnh ấy mà tạo dựng hạnh phúc cho gia đình mình.

Sau khi đeo nữ trang xong, cô dâu đứng lại gần chú rễ, một cập tân hôn, tân lang mặc áo thụng khăn đóng, cô gái mặc ái dài kép trông đẹp biết bao, và rồi nhà gái sẽ “lên đèn”, người ta chọn một người có đạo đức, vợ chồng hạnh phúc, con cái ngoan ngoản, người này sẽ đốt hai cây đèn do nhà trai mang tới, người ta thường cầm cập đèn để tim chúng chập lại rồi đưa vào ngọn đèn khác để đốt, người ta thường kiêng cử khi đốt đèn ngọn cháy ngọn không, hoặc cháy một chút rồi tắt, sau khi lên đèn xong, cha mẹ cô dâu hay trưởng tộc sẽ dâng hương lên bàn thờ, sau đó cô dâu và chú rễ lạy bàn thờ bốn lạy, chú rễ lạy phải cung tay, “lên gối, xuống gối”, cô dâu phải lạy thế ngồi “xếp chè he”.

Lạy gia tiên xong, rễ phụ rót rượu ra khai trầu rượu, để chú rễ và cô dâu cung kính dâng mời cha mẹ cô dâu uống rồi mới làm lễ lạy cha mẹ hai lạy, lễ này mang ý nghĩa đền ơn dưỡng dục. Sau đó lạy họ, từ ông bà, chú bác, cô dì dượng, cho đến các anh, chị những lạy này mang ý nghĩ lễ ra mắt của cập vợ chồng mới, nhất là chú rễ chịu sự tôn kính những người trong thân tộc họ nhà gái. Trước khi làm lễ lạy ai, cô dâu và chú rễ đều phải dâng rượu mời người đó uống trước khi làm lễ.

Sau khi lạy họ xong, cô dâu và chú rễ có thể vào phòng nghỉ, chờ hai họ ăn bánh, uống trà, chuẩn bị rước dâu.

Nhà gái sẽ mang tất cả những mâm rượu trà bánh mứt vào trong, lấy mỗi thứ một phần kiếng lại cho nhà trai, gọi là “Lại quả” hay “Lợi quả”.

Trước khi rước dâu, rễ phụ rót rượu để ông chủ hôn nhà trai, trình với chủ hôn nhà gái xin rước dâu. Cô dâu và chú rễ ra trước bàn thờ lạy bốn lạy rồi mới đi. Những người họ nhà trai là những người rước dâu sẽ ra khỏi nhà gái trước với cô dâu. Cô dâu thường mang theo một cái quả, trong đó đựng nữ trang, tiền bạc và đôi khi có ít bánh để phòng khi lạ chỗ lạ nhà, lúc đói bụng có mà ăn. Những người họ nhà gái là những người đưa dâu sẽ đi theo sau, có những cô thiếu nữ mang giúp cho cô dâu mùng, mền, cập gối những bộ quần áo mới, là những thứ chánh yếu mà cô dâu sắm sẵn mang về nhà chồng.

Khi rước dâu về đến nhà trai, sau khi hai họ đã an vị, người ta lại lên đèn ở nhà trai, để chú rễ và cô dâu “Lạy họ nhà trai”, trước tiên lễ gia tiên, kế đó rễ phụ rót rượu để chú rễ và cô dâu mời cha mẹ chú rễ uống rượu trước khi làm lễ lạy hai lạy, kế đó ông bà nội, ngoại, chú bác cô dì, anh chị ruột mỗi người đều được mời rượu trước khi làm lễ, lễ này mang ý nghĩa cô dâu nhận phận làm dâu và ra mắt họ nhà trai. Những người trong thân tộc sẽ mừng cho cô dâu và chú rễ tiền bạc hay quà.

Sau khi lạy họ xong, chú rễ và cô dâu sẽ tiếp người nhà đãi khách, và cho đến lúc tiệc tàn sẽ tiễn đưa nhà gái về. Mọi người đều bịn rịn chia tay, cô dâu khó cầm được nước mắt khi tiễn những người thân ra về.

Sau đám cưới 3 ngày

Ba ngày sau, là ngày “Phản bái”, cô dâu và chú rễ trở về nhà cô dâu, để “Dở mâm trầu”, thường cô dâu và chú rễ mang theo một cập vịt, để làm thức ăn bày biện cúng ông bà. Trước khi cúng, cô dâu và chú rễ sẽ vào phòng, chỉ có cập vợ chồng mới, dở mâm trầu ra, lấy trầu, cau để vào dĩa rồi mang ra bàn thờ cúng. người ta kỵ mâm trầu có người dở ra nhìn, hoặc khi hai vợ chồng dở mâm trầu ra có người nhìn thấy, họ sẽ dị nghị: “người vợ sẽ cầm quyền”, nếu cô dâu lấy trầu hay cau trước, hoặc chồng sẽ cầm quyền, nếu chàng rễ lấy trước. Đôi khi vì đường xá xa xôi, vì mùa màng cấp bách hay vì lý do nào đó, trước rước dâu, nhà trai có thể xin nhà gái cho “Dở mâm trầu” ngay trong ngày cưới.

Nhưng những cấm kỵ chung quanh “mâm trầu”, trở thành dị đoan. Ngày nay, chú rễ và cô dâu tìm hiểu, quen biết nhau, mâm trầu trở nên thừa và dần dần đi vào quên lãng, hay tại vì nhiều người bỏ ăn trầu, mâm trầu không người ăn, nên người ta giảm bớt đi cho đỡ tốn kém.

Ngày nay tục lạy bàn thờ ông bà người ta vẫn giữ nhưng lạy người sống kể cả cha mẹ, hầu hết được miễn, chú rễ và cô dâu chỉ xá những người phải làm lễ mà thôi.