Làm em bài văn?

phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương (tập làm văn)
jdhgjfg
jdhgjfg
Trả lời 13 năm trước

1,

1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ

Năm 1905 Phan Bội Châu lên đường sang Nhật Bản>Khi chia tay bạn bè, đồng chí, Phan ứng khẩu đọc bài thơ này. Bối cảnh lịch sử, xã hội Virtj Nam lúc đó có những điểm đáng chú ý sau:

- Đất nước ta đang trong một hoàn cảnh chính trị rất đen tối, các cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp đã hầu như tan rã, thực dân Pháp đã làm chủ tình thế,ách đô hộ đã mặc nhiên quàng lên đầu lên cổ nhân dân. Nói như Phan Châu Trinh:

Vạn dân nô lệ cương quyền hạ,
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
(Muôn dân nô lệ một đàn,
Văn chương bát cổ nồng nàn giấc say.)

- Trong một bộ phận những người trí thức dân tộc, ý chí cứu nước không hề bị thui chột, nhưng vấn đề đặt ra cấp thiết là cứu nước bằng con đường nào? Và một ánh sáng mới đã bắt đầu loé lên. Người ta đón nhận những tư tưởng mới từ bên trời Âu truyền sang, người ta say sưa trước những thành tích duy tân của nước Nhật Bản, Trung Hoa. “Kì diều thay là sức quyến rũ của lí tưởng …thực tế càng ủ dột bao nhiêu thì cái viễn cảnh của tưởng tượng lại càng đẹp đẽ, thấm thía bấy nhiêu. Luồng máu nóng trong quả tim trai trẻ bị kích thíc đã bùng lên đến tột độ”(Đặng Thai Mai). Phan Bội Châu ra đi trong niềm say mê lí tưởng đó với một sứ mạng lịch sử đè nặng đôi vai: khôi phục lại đất nước, tái tạo giang sơn.

2. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn hào hùng sôi trào nhiệt huyết và cháy bỏng khát vọng ước mơ.


- Chí làm trai:

Chí làm trai là một lí tưởng nhân sinh trong chế độ phong kiến, thể hiện tư tưởng nhập thế tích cực của đạo Nho. Chí làm trai đó thường gắn với cái mộng công danh:
Công danh nam tử còn vương nợ (Phạm Ngũ Lão)
Không công danh thời nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ)

hoặc để thoả cái chí tang bồng hồ thỉ:

Chí làm trai nam, bắc, tây. đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể (Nguyễn Công Trứ)

Và trong thực tế, không ít người đã lập nên công tích ở đời như Phạm Ngũ Lão từng “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đánh đuổi giặc xâm lăng, giữ gìn đất nước; như Nguyễn Công Trứ từng khơi sông lấp biển, mang cuộc sống ấm no lại cho nhân dân…Phan Bội Châu cũng nói đến chí làm trai và cũng mong làm nên chuyện lạ ở đời:

Làm trai phải lạ ở trên đời,

Nhưng ở một nhà nho tân học, một nhà cách mạng nhiệt thành đang say mê hướng tới ánh sáng lí tưởng mới như Phan Bội Châu thì chuyện lạ đâu có phải là chuyện công danh, cũng đâu phải chỉ là phỉ sức vẫy vùng! Giữa lúc non sông chìm đắm, chí của Phan là chí xoay trời chuyển đất, lấp bể, vá trời chứ đâu chịu ngồi yên mà nhìn đất nước an bài theo ý muốn của bọn thực dân:

Há để càn khôn tự chuyển dời

Đó là lí tưởng sống mà vì nó Phan sẵn sàng hiến trọn cuộc đời mình, lí tưởng mà trước đó không lâu Phan đã nói rõ trong bài hát nói Chơi xuân:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn
Đenm xuân vẽ lại trong nnon nước nhà.

Với một lẽ sống như thế, tư thế con người trong vũ trụ là tư thế của một con người khổng lồ, con người làm chủ hoàn cảnh. Trong cảnh cá chậu chim ***g, giữa những tiếng tở dài bất lực ‘thời cơ đã lỡ rồi” của văn thơ Cần Vương cuói thế kỉ XIX, cái lẽ sống hào hùng, cái tư thế mạnh mẽ chủ động ấy có sức thu hút biết bao đối với cả một thế hệ thanh niên đương thời!

- Ý thức tự khẳng định mình giữa cuộc đời:
Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?

Sự tự khẳng định này cũng là sụăt khẳng định của cái Tôi nhưng là một cái Tôi khác hẳn với cái Tôi cá nhân tư sản chỉ biết đòi hưởng thụ mà trốn tránh trách nhiệm với đời. Đây là một thái độ sống tích cực không buông trôi theo dòng đời mà cũng không thụ động chờ đợi . Cái Tôi ở đây là một cái Tôi trách nhiệm chủ động ghé vai gánh vác trọng trách ở đời. Lẽ sống anh hùng ấy gắn gắn liền với một nhân sinh quan thật cao cả, đẹp đẽ, nó vượt ra ngoài cái danh lợi tầm thường, tuy vẫn có ước vọng thật chính đáng là để lại tiếng thơm muôn đời.

- Quan niệm về vinh nhục:

Trong những tác phẩm văn học khác, có lúc Phan Bội Châu đã nói: “Bôi mặt thờ kẻ thù sẽ là một vật bẩn thỉu trong vũ trụ” (Việt Nam quốc sử khảo), “Sao bằng ngẩng đầu lên làm người lỗi lạc của Tổ quốc” (Hoà lệ cống ngôn). Đó là quan niệm về nỗi nhục và vinh trong trong câu thơ này:

Non sông đã chết sống thêm nhục

Ở thời đại của Phan, không ít người thấm thía cái nỗi đau, nỗi nhục mất nước này, nhưng cách nói của Phan có cái gì đặc biệt, kích động tâm can con người. Một sự khẳng định thật dứt khoát, hàm chứa nỗi tức tối khôn nguôi “Giang sơn tử hĩ”(Non sông đã chết). Một sự phủ định cũng thật dứt khoát nhưng lại hàm chứa sự nóng bỏng sôi sục của con người không cam chịu cúi đầu; phủ định cuộc sống nhục nhã để tìm đến một lẽ sống vinh quang chứ không phải để chìm đắm trong đau buồn, thất vọng. Con người Phan là thế, lúc nào cũng sôi trào bầu nhiệt huyết.

- Thái độ với những thần tượng cũ:

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

Phan Bội Châu là một nhà nho, đã từng qua cửa Khổng, sân Trình, sách vở thánh hiền đã từng thấm sâu vào tim óc. Nhưng cùng với cả một thế hệ nhà nho tâm huyết lúc này, Phan đã được tận mắt thấy sự sụp đổcủa những thần tượng cũ trước làn sóng xâm lăng của thực dân, thấy sự bất lực của những tín điều xưa trước những vấn đề có liên quan đến sự mất còn của đất nước. Hơn thế nữa, ở thời đại “gió Âu, mưa Mĩ” này, một chân trời mới mẻ đã hé rạng trước mắt các nhà nho tiên tiến như Phan Bội Châu. Cái vốn sống, vốn tri thức ấy cộng với bầu nhiệt huyết sôi trào của một con người đang hăm hở tìm đường cứu nước đã giúp Phan Bội Châu có được một ý tưởng táo bạo và dứt khoát như thế với những cái gì đã cũ kĩ, lỗi thời, không đảm đương được trách nhiệm lịch sử đối với dân tộc nữa.

- Khát vọng và tư thế trong buổi lên đường:

Từ đầu bài thơ là những lời bộc bạch đầy hào khí, đến hai câu kết này, tác giả mượn một hình ảnh thơ thật đẹp, thật hùng tráng để bày tỏ lòng mình:

Muốn đuổi theo ngọn gió dài để đi ra biển Đông,
Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên.

Phan Bội Châu ra đi lần này là để đi “tìm hình của nước”, để tiếp cận cái chân trời mơ ước đã mở ra từ những trang sách “tân thư”. Cho nên trong hành trang Phan Bội Châu mang theo không phải chỉ có cái chí “Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà” của bản thân, mà còn cả biêt bao kì vọng của bạn bè, đồng chí, của nhân dân. Trách nhiệm đè nặng đôi vai, nhưng tâm hồn thì như đã rứt tung xièng xích, thả sức cho khát vọng ước mơ. Những ngọn gió dài (trường phong) và muôn trùng sóng bạc cùng một lúc bay lên (Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi) đã chắp cánh cho những khát vọng, ước mơ đó. Ta có cảm giác chính nhà cách mạng, nhà thơ này đã hoá thân thành những cánh chim bằng bay vút lên giữa sóng gió biển khơi, giữa cao rộng đất trời…Hình ảnh mang tính chất anh hùng ca này là kết tinh toàn bộ cái cảm hứng lãng mạn, hào hùng, cái tư thế khoẻ khoắn, hăm hở đầy nhiệt huyết, cái quyết tâm phi thường của nhân vật trữ tình là chính tác giả trong suốt bài lưu biệt này.

Cùng với sự ra đi này của Phan Bội Châu, bài thơ Xuất dương lưu biệt có thể xem như mở đầu cho một loạt anh hùng ca của thời đại mới.

2,

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ này là những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phan Bội Châu lúc này mới ba mươi tám tuổi, là hình ảnh tiêu biểu của một thế hệ cách mạng mới, quyết tâm vượt mình, bỏ qua mớ giáo lý đã quá lỗi thời của đạo Khổng để đón nhận tư tưởng tiên phong trong giai đoạn, mong tìm ra bước đi mới cho dân tộc, nhằm tự giải phóng mình. Phong trào Đông du được nhóm lên cùng với bao nhiêu hy vọng...

Bài thơ đã thể hiện rất sinh động tư thế, ý nghĩ của Phan Bội Châu trong buổi xuất dương tìm đường cứu nước. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai - một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:

Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.

Thực ra chí làm trai chẳng phải đến bây giờ mới được Phan Bội Châu khẳng định. Trước đó, trong thơ trung đại, ta vẫn thấy Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ nhắc đến (ở các bài Thuật hoài, Chí nam nhi). Nhưng điều đó không có nghĩa là ở bài thơ của Phan Bội Châu, lý tưởng nhân sinh kia đã mất đi sự mới lạ, thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao tinh thần mình: đã làm trai là phải làm nên chuyện lạ, đó là trời đất không để "tự chuyển dời". Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:

Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?

Ý thức về cái "tôi" đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt. Đó là nhân vật trữ tình đang tự đứng giữa cuộc đời một cách can đảm, do ý thức được sứ mệnh của mình trong lịch sử và cũng do sự thôi thúc của khát vọng lập công danh. Hai câu luận nói về sự thực nhức nhối:

Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.

Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, "hiền thánh" thần tượng một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" - đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.

Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, đầy dũng khí:

Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

"Vượt biển Đông" là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên "muôn trùng sóng bạc" tiễn chân như một yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này.

Xuất dương lưu biệt là một khúc hát lên đường. Đề tài có tính chất truyền thống, nhưng tư tưởng lại rất mới mẻ. Bài thơ mang âm hưởng lạc quan nên đã khiến cho cảm xúc thể hiện trong bài thơ có chiều sâu, có sức gợi cảm mạnh mẽ. Đây là tráng ca của một vị anh hùng mà suốt đời không hề biết mệt mỏi trong hành động cứu nước thương dân.

Sưu tầm