Hãy giúp em: Cảm nhận của anh (chị) về giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân

anh chị hãy giúp em làm bài tập làm văn này nha! em dỡ văn dữ lắm [:(] [u]Đề bài[/u]:Cảm nhận của anh (chị) về giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân
styles
styles
Trả lời 15 năm trước
So với các kiểu bài ở trên, đề này yêu cầu kiểu bài khó hơn : phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ một nhận định về chính tác phẩm này. Do đó, đây không phải là phân tích đơn thuần mà là sự phân tích theo định hướng có sẵn (Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào, người dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm để mà vui, để mà hi vọng). - Ý kiến được dẫn trong đề bài nêu lên một giá trị rất lớn của tác phẩm Vợ nhặt. Đó chính là giá trị nhân đạo: sự khao khát được sống, được làm người đúng nghĩa dù ở trong một hoàn cảnh vô nhân đạo. Sự phân tích tác phẩm xoay quanh chủ đề này (tham khảo bài giải đề số 5, phần nói về giá trị nhân đạo của Vợ nhặt ) . Bài tham khảo : Nhan đề Vợ nhặt, truyện ngắn của Kim Lân, thật hấp dẫn; nó có thể là câu chuyện tình ở xóm ngụ cư, có thể là Nắng sớm tình yêu v.v… Với “vợ nhặt”, “anh cu Tràng” đã nhặt được vàng. Theo lý thuyết hiện đại về truyện ngắn, mỗi truyện là một “việc vặt” đăng trên báo hàng ngày (một tai nạn xe hoả, một vụ giết cha, bắt được của…) cộng với những tình cảm, những xúc động, xót thương, từ một sự việc bất chợt hàng ngày ấy, người viết truyện ngắn xây dựng một tượng trưng, một đột biến trong cuộc đời nhân vật. Vợ nhặt của Kim Lân cũng vậy, là chuyện một người đàn ông nghèo lấy vợ. Từ chất liệu bình thường đó, nhà văn tưởng tượng những hoàn cảnh, những con người, xây dựng tình duyên trong sáng, đầy xót thương, giữa một khung cảnh đói khát, chết chóc. Truyện ngắn này có những sức rung động bên trong của nó : sự đối lập giữa hoàn cảnh u ám bên ngoài và những tâm hồn nhân hậu, những thỏi vàng ròng, của thế giới bên trong của ba nhân vật. Và,từ những con người lầm lụi, cô đơn, họ quây quần thành một gia đình đầm ấm, chan chứa tình thương. Đó là biến động lớn trong cuộc đời họ. Tràng có vợ, một hạnh phúc bất ngờ đến với anh, khiến anh bàng hoàng, tưởng như mơ ngủ, cô “vợ nhặt” (đã nhặt được ở chợ thì đâu có tên tuổi, tác giả gọi cô là “cô ả”, “người đàn bà”, “thị” ) trở thành “nàng dâu”, người đàn bà biết quán xuyến gia đình, nhà cửa, còn bà Tứ thì khóc mấy lần, con trai bà nên người, bà có chết cũng yên lòng. Tình thương yêu đã biến dổi những con người. Kim Lân đưa người đọc vào một xóm ngụ cư; người đọc nhưn lạc vào một không gian lạ lẫm (một phương diện của thi pháp truyện, đặc biệt là truyện phiêu lưu ); ở đấy những con người tốt bụng, trẻ con đùa nghịch với Tràng, mỗi khi anh đi qua xóm; ở đấy bóng tối chế ngự, “chiều chạng vạng”, những ngày đói thì cảnh tối sẩm lại. Tràng “nhặt” được vợ, đưa qua xóm, cũng là một buổi chiều, gió thổi ngăn ngắt, với những gương mặt hốc hác u tối; hai người đi vào con đường sâu thẳm; tiếng chó sủa. Đến nhà, một túp lều rúm ró, tối om, lát sau, ánh sáng ngọn đèn dầu toả ra ấm áp, rồi sáng hôm sau, nắng mùa hè chói chang, rực rỡ, nhà cửa, sân vườn đang quang quẻ. Tình thương yêu toả sáng. Các nhân vật ấy đáng yêu làm sao! Tràng yêu trẻ hàng xóm và được trẻ yêu anh : anh chàng cục mịch, vạm vỡ, hay đùa, tủm tỉm cười một mình, khi anh dẫn cô vợ nhặt qua xóm - buổi “rước dâu” nghiêm trang, bọn trẻ tinh nghịch hò reo : Chông vợ hài; cả với cô gái rách rưới không quen biết, cũng có khi anh đùa, anh hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò… và ở chợ, vì câu đùa vui Rích bố cu.. có về với tớ thì về, mà Tràng có vợ. Cô “vợ nhặt” là một cô gái cong cớn (Điêu! Người thế mà điêu, cô ả mắng Tràng nói bâng quơ: có về thì về; cô đi theo ngay. Và khi đã là người vợ, người đàn bà trở thành hiền hậu, người vợ đảm đang, nàng dâu hiền. Có vợ, Tràng trở thành người khác, lòng ngập tràn niềm vui sướng. Cô gái chỏng lỏn này là nguồn vui của cuộc đời có thể khác đi; tiếng chổi của nàng dâu mới quét sân kêu sàn sạt trên mặt đất, là một tín hiệu mới. Bà Tứ cũng vậy, trước kia lọng khọng, hay lẩm bẩm một mình, nay nhanh nhẹn, rạng rỡ hẳn lên: bà nói với con trai, với con dâu mới, những lời nhân hậu. Từ khi bà hiểu rồi ( hiểu người đàn bà đứng kia, giữa nhà bà, là vợ con trai bà, là con dâu bà, do cái duyên số), biết bao kỷ niệm và xót thương, một đời cơ cực, chồng và con gái út đã chết, bà khóc mấy lần; sáng hôm sau, bà lanh lẹn, xăm xắn, đùa cợt trong nước mắt ( bát cháo cám đắng chát, bà bảo hai con là chè ngon đáo để). Tình yêu đã biến đổi ba con người khốn khỏ ấy. Trơ trọi trở thành đầm ấm, giá lạnh bơ vơ trỏ thành vui tươi, bóng tối trở thành nắng sớm chan hoà. Tình yêu là tất cả. Kim Lân tả một đám cưới, đám cưới lạ lùng, có một không hai. Nhà văn đưa người đọc vào một không gian kỳ lạ, đau xót, của người dân nghèo xóm ngụ cư đói rách - hỏi vợ, cưới vợ, và đón dâu, một đám cưới làm người đọc sa nước mắt, giữa cảnh xác người chết đói rải rác khắp hố và chợ, quạ bay từng đàn trên trời, trẻ con, người lớn sống sót thì dật dờ như bóng mà. Tràng hỏi vợ một lần ở đầu đường với mọt câu hò vẩn vơ ở đầu đường, một lần nữa ở xó chợ với mấy bát hành đúc. Sau khi ăn bánh đúc “hà ngon”, cô gái trỏ thành cô dâu, áo quẩn tả tơi với cái nón rách và một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt. Cuộc rước dâu thật thê thảm. Tiếng quạ kêu trên cây gạo. Bóng cô dâu, chú rẻ lủi thủi cách nhau ba, bốn bước, giữa hai dãy nhà tối om. Song, đúng là cô dâu, trông thẹn thẹn hay đáo để, ngượng ngùng díu hai chân vào nhau; còn chú rể thì tủm tỉm cười, vênh vênh cái mặt, anh không thể tin được rằng anh có vợ, sự việc không có thật. Cuộc đón dâu tại nhà không kém tủi hờn. Bà mẹ chưa về, chú rể đứng ngây giữa nhà, cô dâu ngồi mớm mép giường. Bà Tứ về, bà vui mừng, bà khóc: con trai bà có vợ, có thể chẳgn ai khó ba đời, có thể cuộc đời cơ cực của mẹ con bà sẽ sang trang. Từ đây, với ngọn đèn dầu toả sáng, với những lời đầy ân tình của bà, hình thành một gia đình ấm cúng, và sớm hôm sau, túp lều cũng lột xác, sáng chói lên dưới nắng hè. Tất cả là tình yêu. Vợ nhặt của Kim Lân là một loại truyện ngắn cổ điển, với cốt truyện là một “việc vặt” hàng ngày; nàh văn hư cấu những tình huống đặc biệt, rất hấp dẫn: xóm ngụ cư, năm chết đói, một người đàn ông “nhặt vợ” ở chợ mang về nhà; sự việc chớp nhoáng, song đầy ý nghĩa với ba con người, ba cuộc đời. Nhà văn đưa hành động truyện vào bên trong, vào thế giới thế giới tâm linh của ba nhân vật, - hành động của tâm linh, tạo nên một thế giới con người rất đẹp, một chủ nghĩa nhân bản pha chút hài hước thật hấp dẫn.
Kim
Kim
Trả lời 15 năm trước
Giá trị to lớn mà truyện ngắn " Vợ nhặt" của Kim Lân đem đến cho chúng ta, là cái hiện thực đen tối trước Cách mạng tháng Tám mà thế hệ cha ông chúng ta phải chịu. Có thể nói qua ngòi bút sắc sảo của Kim Lân, quê hương chúng ta hồi ấy hiện lên tiêu điều, xác xơ trong cảnh đói nghèo. Con người thì " xanh xám như những bóng ma và nằm ngỗn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả rạ". Kim Lân không chỉ nhìn hiện thực như thế. Bằng một tình yêu tha thiết với cuộc sống và con người, nhà văn đã gửi gắm niềm tin ấy với cuộc đời bằng cách xây dựng cái hạnh phúc nhỏ nhoi mới " nhặt" được của gia đình Tràng. Cái đẹp đẽ đáng trân trọng chính là dù nạn đói có xô con người đến ngưỡng cửa của tử thần, họ vẫn biết thương yêu nhau, nhường nhau miếng cơm, và hơn thế nữa, dù là vợ " nhặt" được, dù là chỉ vì miếng ăn mà người con gái trở thành " vợ nhặt", dù là cuộc sống chẳng còn biết trông nhờ vào đâu để sống, mà cả anh Tràng, và cô " vợ nhặt" và cả bà mẹ đều vui mừng vì có hạnh phúc và vẫn còn tin vào ngày mai, dù hôm nay phải ăn cháo, ăn cám. Đốm lửa sáng từ ngọn đèn trong nhà, tiếng vang của nhịp trống khởi nghĩa, " màu đỏ của lá cờ khởi nghĩa phấp phới... đang dần hiện lên hứa hẹn một ngày mai cuộc đời sẽ khác". Nói tóm lại, với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ chỉ tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn, những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.
thai thach thao
thai thach thao
Trả lời 14 năm trước
Mình chỉ cung cấp 1 số ý chính trong dàn bài chi tiết thôi nhá. Bạn hãy cố thêm ý và làm theo ý mình Đối với dạng phân tích giá trị nhân đạo thì bạn phải đưa ra được các ý bắt buộc sau: - Tố cáo thế lực cường quyền chà đạp lên quyền sống của con người. - Yêu thương, bảo vệ con người --> Một số tác phẩm còn hướng theo bút pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, nghĩa là mở ra lối thoát cho nhân vật. Trong bài vợ nhặt của Kim Lân cũng vậy. * Tố cáo: -tội ác của P & N. Chúng đã đè lên đôi vai của nhân dân miền Bắc nói riêng và nhân dân Nam Bộ nói chung 2 tầng xiềng xích khiến cho hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. -Giá trị con người bị hạ thấp ngang hàng với đồ vật.( việc dựng vợ gả chồng là một trong những việc thiêng liêng nhất đời người mà khi nó diễn ra trong nạn đói. Người vợ nhặt trong truyện là một trong những người phụ nữ điển hình phải đi làm vợ cho ngưới mà không được cưới cheo gì cả.) -Tiếng nói xót xa đồng cảm của nhà văn truyền đến cho người đọc .-Giá trị hiện thực. *Yêu thương, bảo vệ: -Trong cái đói, người ta vẫn ao ước hạnh phúc gia đình(Tràng + vợ nhặt) -Con người trong nạn đói vẫn hường tới cái sống, ngày mai(bà cụ,..) -Khẳng định giá trị con người không thể mất đi mà chỉ bị che khuất. Khi có được tình yêu thương của con người với con người và mái ấm gia đình. Lúc đó, bản chất thật thà điềm đạm cùng với sự trưởng thành trong ý thức đã bộc lộ được nét đẹp thật sự của con người(phân tích biền đổi tinh tế của 3 nhân vật) *Mở ra lối thoát cho nhân vật -Tiếng trống thúc thuế-->2 tầng xiếng xích Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới
le vu hong ha
le vu hong ha
Trả lời 14 năm trước
Kim Lân là bố đẻ ông họa sĩ thành Chương vậy hỏi ông này là chắc ăn, lên sóc sơn vào Việt Phủ thành Chương hỏi ông đó là điểm 10 à ? Râu vẩy