Hướng em làm bài Văn chứng minh nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá cần được bảo vệ ??

đề văn là em hãy chứng minh rằng rừng là cần phải đc bảo vệ. thứ sáu này e phải làm bài tại lớp, các anh chị giúp e nhanh nhanh đc chứ ạ? các anh chị cho e xin các luận điểm chính thôi cũng đc. E xin chân thành cảm ơn về sự giúp đỡ của các anh chị. nick yahoo cua e la: lonelyangel_goodbyemylove_109. nếu các anh chị có giúp e thì pm tin thông báo vào đó nha. (hix, e học lớp 8 mà cô giáo bảo làm đề này e nhớ đc jì chết liền)
styles
styles
Trả lời 16 năm trước
II.HIỆN TRẠNG VÀ TÌNH HÌNH KHAI THÁC TÀI NGUYÊN RỪNG: II.1. Khái niệm rừng: • Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển (Morozov 1930). Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh quan địa lý. • Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài (M.E. Tcachenco 1952). • Rừng là sự hình thành phức tạp của tự nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu (I.S. Mê lê khôp 1974). • Rừng cũng có thể hiểu bằng một cách khác là vùng đất đủ rộng có cây cối mọc lâu năm. • Rừng tự nhiên 9,77 triệu ha, chiếm 84,37%. Rừng trồng 1,81 triệu ha, chiếm 14,63%. • Rừng là một thể tổng hợp phức tạp có mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong quần thể, giữa các quần thể trong quần xã và có sự thống nhất giữa chúng với hoàn cảnh trong tổng hợp đó. • Rừng luôn luôn có sự cân bằng động, có tính ổn định, tự điều hòa và tự phục hồi để chống lại những biến đổi của hoàn cảnh và những biến đổi về số lượng sinh vật, những khả năng này được hình thành do kết quả của sự tiến hóa lâu dài và kết quả của sự chọn lọc tự nhiên của tất cả các thành phần rừng. Rừng có khả năng tự phục hồi và trao đổi cao. • Rừng có sự cân bằng đặc biệt về sự trao đổi năng lượng và vật chất, luôn luôn tồn tại quá trình tuần hoàn sinh vật, trao đổi vật chất năng lượng, đồng thời nó thải ra khỏi hệ sinh thái các chất và bổ sung thêm vào đó một số chất từ các hệ sinh thái khác. • Sự vận động của các quá trình nằm trong các tác động tương hỗ phức tạp dẫn tới sự ổn định bền vững của hệ sinh thái rừng. II.1.1. Phân loại rừng: II.1.1.1. Rừng lá kim: o Ở vùng ôn đới có thành phần khá đồng nhất, khí hậu lạnh, có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất thấp hơn vùng nhiệt đới (nhóm cây đặc trưng là thông, vân sam, lim sam và cây Seqnota khổng lồ). o Phân bố chủ yếu ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Nga, Trung Quốc và một số vùng núi cao nhiệt đới. II.1.1.2. Rừng rụng lá ôn đới:  Giáp nhiệt đới và phân bố chủ yếu ở vùng thấp, chủ yếu ở Châu Âu, Đông Bắc Mỹ, Nam Mỹ, một phần Trung Quốc, Nhật Bản, Oxtrâylia…nó thường rụng lá vào mùa thu, chiếm phần lớn diện tích canh tác của những nước này khoảng 35% diện tích . Rừng taiga có tại khu vực có vĩ độ cao của Bắc bán cầu, chỉ dưới tundra (lãnh nguyên) và phía trên của các thảo nguyên. Taiga hay rừng taiga (từ tiếng Mông Cổ) là một quần xã sinh vật với đặc trưng nổi bật là các rừng cây lá kim. Taiga bao phủ hầu hết phần trên đại lục của Alaska, Canada, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy và Nga (đặc biệt là Siberi), cũng như phần xa nhất về phía bắc của Hoa Kỳ (không kể Alaska), bắc Kazakhstan và khu vực Hokkaido của Nhật Bản. Rừng taiga là quần xã sinh vật đất liền lớn nhất trên thế giới. Tại Canada, thuật ngữ boreal forest ( rừng phương bắc) được sử dụng để chỉ phần phía nam của quần xã sinh vật này, trong khi "taiga" được dùng để chỉ khu vực phía bắc trơ trụi hơn, ở phía nam của ranh giới cây gỗ Bắc Cực. Do Bắc Mỹ và đại lục Á-Âu trong quá khứ gần đây đã được nối liền bằng cầu đất liền Bering, nên một loạt các loài động-thực vật (chủ yếu là động vật) đã có thể xâm chiếm cả hai lục địa này và được phân bổ trong quần xã sinh vật taiga. Các nhóm sinh vật khác thì khác biệt theo khu vực, thông thường với mỗi chi có vài loài khác biệt, chúng chiếm các khu vực khác nhau của rừng taiga. Rừng taiga cũng có một số loài cây gỗ lá nhỏ sớm rụng như bạch dương, tống quán sủi, liễu và dương rung; chủ yếu trong các khu vực không có mùa đông quá lạnh. Tuy nhiên, các loài thông rụng lá lại sinh sống trong những khu vực có mùa đông lạnh giá nhất ở Bắc bán cầu, tại miền đông Siberi. Phần phía nam của rừng taiga còn có các loài cây như sồi, phong và du rải rác trong các rừng cây lá kim. II.1.1.3. Rừng mưa nhiệt đới:  Phân bố chủ yếu ở vùng khí hậu nóng, mưa nhiều và có tính đa dạng sinh học cao nhất.Hệ cây rừng quanh năm có lá,dây leo chằng chịt,phía dưới đất tối âm u, nóng và ẩm  Rừng nhiệt đới có giá trị kinh tế cao phục vụ đời sống con người do có khối lượng sinh học cao phong phú về số lượng cũng như chất lượng nên đang bị con người khai thác một cách triệt để  Diện tích chỉ còn khoảng 50% so với trước và chỉ còn chiếm 8% so với diện tích lục địa. VD: Rừng Cúc Phương khu rừng nhiệt đới điển hình, có diện tích 22,000 mẩu. Đây là một rừng nguyên sinh trong vùng đá vôi với rất nhiều hang động. Có những động còn di tích chứng tỏ rằng loài người đã xử dụng từ 12.500 năm về trước. Có cây sống đến hàng ngàn tuổi. Đường kính đến vài thước và cao đến 50 m…Có cây to vài chục người ôm không xuể. Rừng Cúc Phương với hàng trăm loài động vật hoang dã, hàng ngàn loài côn trùng, độ 1.800 loại, hai trăm họ và 30 bộ. Năm 1996 đã tổng kết với 71 loài thú, 319 loài chim, 33 loài bò sát và 16 loài lưỡng cư. Voọc quần đừi trắng( Trachipythecus francoisi delacouri) là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Ngoài ra những loài Cu li lùn, Tê Tê đang nằm trong sách đỏ Việt Nam. Rừng có hai loài sóc bay. Đặc biệt là một loài Sóc bụng đỏ ( Callosciurus erythraeus cucphuongensis) chỉ có ở rừng Cúc Phương mà thôi. Rừng có hai loại dơi. Dơi Đốm Hoa (Scotomanes ornatus) thấy lần đầu tiên ở Việt Nam tại Rừng Cúc Phương. Trong số 4 loài gà, ba loại là chim quý được bảo vệ, đó là Công (Pavo muticus), Gà Tiền (Polyplectron bicalcaratum) và Gà Lôi Trắng (Lophura nycthemera). Đồng thời có những chim quý khác như Hồng Hoàng và Cao Cát. Rừng còn có 17 loài rắn, 13 loại thằn lằn, và ba loại rùa… II.1.1.4. Rừng phòng hộ: Nhằm điều tiết nguồn nước cho các dòng chảy, các hồ chứa để hạn chế lũ lụt, giảm xói mòn, bảo vệ đất, ngăn sự bồi lấp lòng sông, lòng hồ. Chủ yếu là những nơi đồi núi có độ dốc cao, yêu cầu đối với rừng phòng hộ đầu nguồn đầu nguồn phải tạo thành vùng tập trung có cấu trúc hỗn loài, nhiều tầng, có độ che phủ của tán rừng là 0,6 trở lên. Rừng phòng hộ ven biển: Được thành lập với mục đích chống gió hạn, chắn cát bay, ngăn chặn sự xâm mặn của biển, chắn sóng lấn biển, chống sạt lở, bảo vệ các công trình ven biển. Rừng phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái: Nhằm mục đích điều hòa khí hậu, chống ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư, khu đô thị, khu du lịch. Rừng phòng hộ 5,42 triệu ha, chiếm 46,8% (năm 2000) II.1.1.5. Rừng đặc dụng: Được sử dụng cho mục đích đặc biệt như bảo tồn thiên nhiên, mẩu chuẩn hệ sinh thái, bảo tồn nguồn gen động thực vật, phục vụ nghiên cứu khoa học… Bao gồm các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu văn hóa lịch sử và môi trường Rừng đặc dụng 1,443 triệu ha, chiếm 12,46% (năm 2000) II.1.1.5.1.Vườn quốc gia: Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp ứng yêu cầu sau: • Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch. • Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người. • Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên. • Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi. II.1.1.5.2Khu bảo tồn thiên nhiên (khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh): Là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu cầu sau: • Là vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao. • Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch. • Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm. • Đủ rộng để chứa được một hay nhiếu hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%. II.1.1.5.3.Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường: Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm: • Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo. • Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng. II.1.1.5.4.Nguyên tắc bảo vệ và phát triển: • Phải đảm bảo sự phát triển tự nhiên của rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và cảnh quan của khu rừng • Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên phải xác định số phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái và phân khu hành chính dịch vụ. Ba phân khu này gọi là vùng lõi của rừng đặc dụng ngoài ra còn có vùng đệm. • Mọi hoạt động của rừng đặc dụng phải được phép của chủ rừng và phải tuân theo quy chế quản lý rừng. II.1.1.5.5.Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Là khu vực được đảm bảo toàn nguyên vẹn và quản lý bảo vệ chặt chẽ nhằm theo dõi diễn biến tự nhiên, nghiêm cấm mọi hành vi làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng. Cơ chế bảo vệ: nhà nước cẩm hoàn toàn các hoạt động sau: • Làm thay đổi cảnh quan tự nhiên. • Làm ảnh hưởng thay đổi đến đời sống tự nhiên của các loái động thực vật hoang dã. • Cấm thả và nuôi trồng các loài động thực vật từ nơi khác tới. • Cấm khai thác tài nguyên sinh vật. • Cấm chăn thả gia súc. • Cấm gây ô nhiễm môi trường. • Cấm mang hóa chất độc hại vào rừng, đốt lửa trong rừng, ven rừng II.1.1.6. Rừng ngập mặn: Các vỉa san hô và cỏ biển còn nguyên vẹn có thể làm giảm nhẹ hoặc tiêu tan các đợt sóng thần cao 15 mét. Một nghiên cứu của Nhật Bản cho thấy, một Rừng ngập mặn có chiều rộng 100 mét có thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 50% năng lượng của sóng. Trong đợt động đất và sóng thần ngày 26 tháng 12 năm 2004, tại đảo Pulau Sêmplu của Inđônêxia nằm gần tâm ngoài của trận động đất, chỉ có 100 người bị chết vì những người dân trên đảo đã học được kinh nghiệm chạy trốn lên vùng đất cao và những vùng có rừng ngập mặn bao quanh... Việt Nam với bờ biển dài 3260 km, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, hàng năm thường xuyên phải hứng chịu những cơn bão và triều cường gây thiệt hại lớn. Trước đây, nhờ có các dãy rừng ngập mặn tự nhiên và những dãy rừng được trồng ở các vùng cửa sông, ven biển nên đê điều ít khi bị vỡ. Nhưng gần đây do việc phá rừng ngày càng tăng, nạn lở đất, lũ lụt xảy ra nhiều nên cuộc sống của cộng đồng dân cư ven biển ngày càng bị đe doạ. Ngay trong năm 2005, Việt Nam đã phải gánh chịu những thiệt hại to lớn về người, tài sản và cơ sở hạ tầng. Nhiều đoạn đê biển bị vỡ hoặc sạt lở nghiêm trọng. Nhưng sau những thiệt hại mà bão số 2, bão số 6 và bão số 7 gây ra, nhiều người dân ở vùng biển đều có nhận xét rằng: ở những khu vực có rừng ngập mặn, đê biển không hề sạt lở. Tại tỉnh Thanh Hoá, bão số 7 đã gây những thiệt hại nghiêm trọng, nhưng cũng qua cơn bão này, người dân càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò của rừng ngập mặn. Bà Viên Thị Hoa - Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Thanh Hoá nói: "Sau bão số 7, chúng tôi có dịp đi một số tỉnh nằm trong dự án trồng rừng ngập mặn do Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch và hội Chữ thập đỏ Nhật Bản tài trợ. Tận mắt chứng kiến những đoạn đê vỡ, những khu nhà ngập trong nước và có dịp so sánh với những quãng đê lành lặn được che chở bởi những cánh rừng ngập mặn hoặc những khoảng tre gai... chúng tôi dễ dàng nhận thấy một điều: ở đâu có rừng ngập mặn, sức tàn phá của sóng biển bị suy giảm. Rừng ngập mặn là vành đai xanh góp phần quan trọng trong việc phòng chống và giảm thiểu thiệt hại thiên tai". Giáo sư-Tiến sĩ Phan Nguyên Hồng - một chuyên gia trong lĩnh vực rừng ngập mặn cho biết: "Rừng ngập mặn có ý nghĩa to lớn trong việc phòng vệ đê chống xói lở ở vùng ven biển. Nếu chỗ nào không có rừng ngập mặn thì khi có bão dễ bị phá. Ở các nước có Rừng ngập mặn, họ rất quan tâm giúp đỡ các nước không có rừng ngập mặn như Nhật Bản, Hà Lan. Một số nước Bắc Âu muốn Việt Nam phát triển rừng ngập mặn để bảo vệ dân, người ta đã đầu tư nhiều tiền cho chúng ta phục hồi rừng, nhưng một số địa phương lại có chủ trương phá rừng đi để làm đầm tôm, vì lợi ích trước mắt không tính đến hậu quả lâu dài. Hậu quả cơn bão số 7, số 6 là những bài học rất đắt giá cho chúng ta". Chúng ta đều biết rằng, ngay sau trận sóng thần và động đất xảy ra ở khu vực Nam Á cuối năm ngoái, rất nhiều hội thảo khoa học về thảm hoạ thiên tai đã được tổ chức và tầm quan trọng của rừng ngập mặn trong việc phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai đã được các quốc gia đặc biệt quan tâm, chú ý. Bài học nhãn tiền từ sự thiệt hại về người, về tài sản ở Thái Lan - đất nước quá quan tâm đến việc phát triển kinh doanh du lịch mà chưa tính đến sự tổn thất phải trả giá đắt vì thiên tai dường như chưa đủ vì ở một số địa phương vẫn còn tình trạng phá rừng làm đầm nuôi trồng thuỷ sản. II.1.1.7. Rừng sản xuất: Bao gồm các loại rừng sử dụng để sản xuất kinh doanh gỗ, đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp bảo vệ môi trưòng sinh thái Rừng sản xuất 4,717 triệu ha, chiếm 40,73% (năm 2000) Quyết định 147/2007/QĐ-TTg do Thủ tướng Chính phủ ban hành mới đây thực sự là động lực để thúc đẩy các chủ rừng tham gia trồng rừng sản xuất, đảm bảo bình quân mỗi năm có thêm 250.000ha (bao gồm cả diện tích trồng lại rừng sau khai thác). Tổng mức đầu tư để thực hiện chương trình này khoảng 40.000 tỷ đồng, trong đó huy động các thành phần kinh tế khoảng 31.000 tỷ đồng, vốn NSNN 9.000 tỷ đồng. Cụ thể, ở các xã đặc biệt khó khăn (theo QĐ 164/2006/QĐ-TTg), bà con được hỗ trợ 3 triệu đồng/ha khi trồng các loài cây sản xuất gỗ lớn (khai thác sau 10 năm tuổi), cây bản địa trên đất trống, đồi núi trọc, hay 2 triệu đồng/ha với các loài cây sản xuất gỗ nhỏ. Riêng chủ rừng trồng rừng tại các xã biên giới được hỗ trợ thêm 1 triệu đồng/ha, ngoài mức hỗ trợ trên. Hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng không thuộc xã đặc biệt khó khăn sẽ được hỗ trợ 2 triệu đồng/ha nếu trồng rừng sản xuất. Nếu trồng rừng khảo nghiệm (giống mới, trên vùng đất mới) còn được trợ vốn bằng 60% giá thành trồng rừng được duyệt. Khi trồng rừng, chủ rừng được hưởng toàn bộ sản phẩm từ rừng trồng. Hơn nữa, khi khai thác, sản phẩm được tự do lưu thông và được hưởng các chính sách ưu đãi về miễn giảm thuế và tiền sử dụng đất theo quy định hiện hành. Chủ rừng chỉ phải nộp cho ngân sách xã 80kg thóc/ha/chu kỳ rừng trồng khi khai thác để xây dựng quỹ phát triển rừng của xã và quỹ phát triển rừng thôn, bản, trong đó trích nộp cho mỗi quỹ là 50%. Trường hợp mất rừng do nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn, sâu bệnh được xác định theo đúng quy định của Bộ NN-PTNT, người trồng rừng không phải hoàn trả số tiền đã nhận hỗ trợ. Quyết định 147 cũng nêu rõ, các rừng giống, vườn giống cũng được hỗ trợ tối đa là 30% tổng diện tích được quy hoạch. Mức hỗ trợ tối đa từ ngân sách nhà nước là 1,5 tỷ đồng cho một trung tâm giống. Đối với các DN, Nhà nước chỉ hỗ trợ đối với nhà máy sản xuất ván ghép thanh kết hợp với ván dăm hoặc ván ghép thanh kết hợp với ván MDF để tận dụng nguyên liệu. Nhà máy không được dời địa bàn đăng ký sản xuấttrong vòng 20 năm. Nhà máy xây dựng có quy mô công suất thực tế tối thiểu 10.000 m3/năm; thiết bị máy mới 100%; DN phải có diện tích rừng sản xuất đã trồng đến thời kỳ được thu hoạch bảo đảm cung cấp nguyên liệu cho nhà máy tối thiểu đạt 50% công suất thiết kế, hoặc nơi đặt nhà máy đã có vùng nguyên liệu bảo đảm cung cấp cho nhà máy đạt 100% công suất thiết kế cũng được hỗ trợ từ nguồn ngân sách này, kể cả các DN ngoài quốc doanh. Nếu là DNNN, Chính phủ chỉ hỗ trợ cơ sở chế biến gỗ đã được cổ phần hóa với phần vốn nhà nước chiếm không quá 50%. II.2.Vai trò của rừng: • Cung cấp lâm sản, đặc sản phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng xã hội, trước hết là gỗ và lâm sản ngoài gỗ • Cung cấp động vât, thựcvật là đặc sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư. • Cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, cho xây dựng cơ bản. • Cung cấp dược liệu quý phục vụ nhu cầu chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cho con người. • Cung cấp lương thực, nguyên liệu chế biến thực phẩm...phục vụ nhu cầu đời sống xã hội... +Vai trò phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái • Phòng hộ đầu nguồn, giữ đất, giữ nước, điều hòa dòng chảy, chống xói mòn rửa trôi thoái hóa đất, chống bồi đắp sông ngòi, hồ đập, giảm thiểu lũ lụt, hạn chế hạn hán, giữ gìn được nguồn thủy năng lớn cho các nhà máy thủy điện. • Phòng hộ ven biển, chắn sóng, chắn gió, chống cát bay, chống sự xâm nhập của nước mặn...bảo vệ đồng ruộng và khu dân cư ven biển... • Phòng hộ khu công nghiệp và khu đô thị, làm sạch không khí, tăng dưỡng khí, giảm thiểu tiếng ồn, điều hòa khí hậu tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển. • Phòng hộ đồng ruộng và khu dân cư: giữ nước, cố định phù sa, hạn chế lũ lụt và hạn hán, tăng độ ẩm cho đất... • Bảo vệ khu di tích lịch sử, nâng cao giá trị cảnh quan và du lịch... • Rừng còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là nơi dự trữ sinh quyển bảo tồn các nguồn gen quý hiếm. +Vai trò xã hội Là nguồn thu nhập chính của đồng bào các dân tộc miền núi, là cơ sở quan trọng để phân bố dân cư, điều tiết lao động xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo cho xã hội... +Vai trò của rừng trong cuộc sống • Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay 44%) dưỡng khí để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976). • Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất, giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. • Một ha rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16 tấn oxy ( rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). • Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do 1.000 - 3.000 m² cây xanh tạo ra trong một năm. II.2.TÌNH TRẠNG KHAI THÁC TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ. II.2.1.Hiện trạng rừng Việt Nam: Việt Nam là một nước nhiệt đới nằm ở vùng Đông Nam Á, có tổng diện tích lãnh thổ khoảng 331.700 km2, kéo dài từ 9- 23 độ vĩ bắc, trong đó diện tích rừng và đất rừng là 20 triệu ha, chiếm khoảng 20% diện tích toàn quốc (Tổng cục thống kê năm 1994). -Trước đây, rừng chiếm diện tích khoảng 60 triệu km2. -Đến năm 1958 chỉ còn 44,05 triệu km2 (chiếm khoảng 33% diện tích đất liền). -Năm 1973 còn 37,37 triệu km2. Hiện nay diện tích rừng ngày càng giảm, chỉ còn khoảng 29 triệu km2. + Ở Việt Nam: -Vào năm 1943 có khoảng 14 triệu ha, tỉ lệ che phủ 43% diện tích. -Năm 1976 còn 11 triệu ha, tỉ lệ che phủ còn 34%. -Năm 1985 còn 9,3 triệu ha, tỉ lệ che phủ còn 30%. -Năm 1995, còn 8 triệu ha và tỉ lệ che phủ còn 28%. Ngày nay chỉ còn 7,8 triệu ha, chiếm 23,6% diện tích, tức là dưới mức báo động cân bằng 3%. +Còn trên thế giới: -Tổng số rừng có trữ lượng gỗ trên 50 m3/ha chỉ có khoảng 2,8 tỉ ha, còn lại là rừng thưa khoảng 1,2 tỉ ha. -Phần lớn diện tích rừng kín phân bố ở vùng nhiệt đới. II.2.2. Tình Hình Chung Về Nạn Phá Rừng: + Chặt phá rừng bừa bãi: -Từ 7000 năm trước việc chặt phá rừng cho phát triển nông nghiệp được xác định ở Trung và Nam Phi, còn ở Ấn Độ được xác định vào 9000 năm trước. Tuy nhiên, vào những năm trước việc chặt phá rừng làm nương rẫy theo quy mô nhỏ nên không tác động xấu đến môi trường. - Ở những vùng nhiệt đới việc chặt phá rừng xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XIX do mở rộng diện tích trồng cây nông nghiệp và công nghiệp. -Theo FAO từ năm 1950 rừng nhiệt đới mất khoảng 50%, nhiều nhất là ở Trung Mỹ (60%), Trung Phi (52%), Nam Phi và Đông Nam Á tương ứng là 37 và 38%. - Đến những năm đầu của thế kỷ 80 rừng nhiệt đới bị mất theo tốc độ 113000 km2/năm, trong đó có khoảng 3/4 rừng kín. Tốc độ mất rừng trong những năm gần đây càng ngày càng gia tăng mạnh, dự đoán đến năm 2020 khoảng 40% rừng còn lại bị phá huỷ nghiêm trọng. - Ở nước ta, tốc độ kinh tế tăng nhanh tương ứng với tốc độ phá rừng, mỗi năm rừng Việt Nam mất đi 13-15 nghìn ha chủ yếu do nạn du canh du cư, lấy gỗ, đốt rừng lấy đất trồng cây công nghiệp xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu giao thông, khai thác mỏ, xây dựng đô thị,… + Hậu quả cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ để lại một tổn thất không nhỏ, đã làm mất đi 1/4 diện tích rừng nguyên sinh Việt Nam. +Rừng bị tàn phá, bị khai thác quá mức đã trở nghèo kiệt, các hệ sinh thái rừng bị phá hủy. Nhiều loại thực vật rừng quý đang bị chặt hạ, thu hái không có kế hoạch nên đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. II.2.3.Vấn đề quản lý và bảo vệ rừng: - Quản lý và bảo vệ rừng không còn là một vấn đề mới mẻ nhưng hiện nay đó đang là một vấn đề hết sức cấp bách. + Trong cuộc sống, do những nhận thức về rừng chưa đầy đủ cùng với sức ép về dân số, sức ép về xã hội, con người đã lợi dụng các sản phẩm từ rừng một cách trực tiếp hay gián tiếp. Dù có ý thức hay không có ý thức, con người đã luôn tác động đến rừng, ở đây nghĩa là tác động đến thành phần của hệ sinh thái rừng, tác động và làm thay đổi các quy luật vận động đang diễn ra một cách ổn định, dù chỉ một tác động nhỏ đến rừng cũng làm thay đổi rất nhiều mối quan hệ khác nhau trong rừng. + Dự đoán trong tương lai, nếu không có chính sách bảo vệ hữu hiệu của Nhà nước thì rừng Việt Nam ngày càng bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng: gây lũ lụt, xói mòn đất, diện tích đất trống đồi trọc ngày càng tăng,… -Nguồn tài nguyên rừng, đất rừng quốc gia hiện có cũng như trong tương lai trên cơ sở ổn định lâu dài để đáp ứng nhu cầu của Nhà nước về lâm sản, bảo vệ môi trường, nâng cao sản lượng rừng,… -Hệ sinh thái rừng luôn có khả năng duy trì và điều hoà. điều đó có nghĩa là nếu rừng được bảo vệ tốt, tức là các quá trình vận động, các chu trình trong hệ sinh thái rừng không bị ảnh hưởng. Bảo vệ rừng tốt tức là ngăn chặn các tác động có hại đến rừng như lửa rừng, phá rừng để thực hiện các hoạt động phi lâm nghiệp, khai thác rừng quá mức để cho các quá trình tự điều chỉnh của rừng diễn ra thuận lợi theo đúng qui luật vốn có của nó. -Hệ sinh thái rừng có tính ổn định khi được bảo vệ. Nếu không có sự can thiệp của con người, các hệ sinh thái rừng tiến hoá theo hướng ngày càng phức tạp và bền vững. Phá đi các hệ sinh thái rừng tự nhiên và thay vào đó là các hệ sinh thái rừng nhân tạo, con người đã làm cho chúng mất đi tính phức tạp và tính bền vững. -Do đó, bảo tồn cả hệ sinh thái rừng là một đòi hỏi cấp bách, nhất là đối với hệ sinh thái rừng nhiệt đới. Biện pháp bảo tồn duy nhất và hữu hiệu nhất trong việc bảo tồn hệ sinh thái rừng là bảo tồn tại chổ. Biện pháp bảo tồn này cho phép điều tra, nghiên cứu các đặc điểm sinh học, sinh thái và các điều kiện môi trường, các qui luật hình thành hệ sinh thái cũng như để phát hiện ra các biến dị duy truyền của các loài trong đó. Từ những năm 60, Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề này và cho đến nay đã có một hệ thống bảo tồn tại chỗ dưới 3 hình thức khác nhau: Công viên Quốc gia, Khu bảo tồn, Khu văn hoá- lịch sử và môi trường gọi chung là hệ thống rừng đặc dụng. -Bảo tồn nguồn gen thực vật rừng là một việc làm cấp thiết và thường xuyên, vừa nhằm phục vụ các mục tiêu trước mắt và lâu dài của công tác cải thiện giống, vừa góp phần quan trọng vào công tác bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ sự đa dạng sinh học. -Quan trọng hơn là tăng cường sự tham gia của nhân dân vào việc trồng, bảo vệ và quản lý, phát triển rừng có hiệu quả vì lợi ích của môi trường chung. Song song với vấn đề đó cần phải đóng góp cải thiện đời sống, tăng việc làm cho nhân dân, đặc biệt là các cộng đồng miền núi. TÀI NGUYÊN SINH HỌC MUC LUC I.Khái niệm II. Bảng thống kê các loài sinh vật trên thế giới III. Đặc điểm tài nguyên sinh học Việt Nam IV. Một số loài động thực vật mới phát hiện V. Những nguồn lợi do TNSH mang lại VI. Sự mất dần đa dạng sinh học việt Nam VII. Sự cần thiết bảo vệ tài nguyên sinh học I Khái niệm: Tài nguyên sinh học hay đa dạng sinh học là bao gồm tất cả các loài thực vật, động vật và vi sinh vật sống hoang dã trong rừng, trong đất, trong không khí và trong các vực nước *Các thành phần của đa dạng sinh học: -Đa dạng về gen:Là tất cả các gen có trong tất cả các cơ thể TV, ĐV, nấm ,vi sinh vật. -Đa dạng về loài:là toàn bộ nhứng sự khác nhau trong một loài và giữa các nhóm loài cũng như giữa các loài trong tự nhiên -Đa dạng hệ sinh thái:là sự phong phú về trạngthái vàloại hìng các hệ sinh thái khác nhau. II. . Bảng thống kê các loài sinh vật trên thế giới Thật ra ta vẫn chưa biết trên thế giới có bao nhiêu loài sinh vật đang tồn tại.Theo thống kê mới nhất chúng ta đã biết và mô tả được 1,4 triệu loài sinh vật phân loại từ thấp đến cao 1. Động vật 6.100 loài da gai 751.000 loài côn trùng 843 loài cá sụn 18.150 loài cá xương 4.184 loài ếch nhái 6.300 loài bò sát 9.040 loài chim 4.000 loài thú 248.428 loài động vật nguyên sinh 2.Thực vật 5.000 loài thân gỗ 9.000 loài ruột khoang 12.200 loài giun dẹp 12.000 loài giun tròn 12.000 loài giun đốt 50.000 loài thân mềm 46.963 loài nấm 26.900 loài tảo 16.600 loài rêu 10.000 loài dương xỉ 529 loài hạt trần 170.000 loài cây hai lá mầm 50.000 loài cây một lá mầm 3. Vi sinh vật vi khuẩn 4.760 loài vi rút 1.000 loài . III. Đặc điểm tài nguyên sinh học Việt Nam III.1 Ưu thế của Việt Nam Sự đa dạng hệ sinh thái ở Việt Nam:VN nằm trong khu vực nhiệt đơí gió mùa với diên tích trãi dài từ 8 30`vĩ độ Bắc đến 23 vĩ độ nam. Vị trí địa lí, khí hậu thuận lợi đa tạo nên sự đa dạng sinh học hêt sức phong phú cả về nguồn gen, giống loài và h ệ sinh thái. Sự đa dạng hệ sinh thái cả trên đất liền, cả trên biển. Các hệ sinh thái tiêu biểu: -Hệ sinh th ái rừng: phong phú với các kiểu rừng kín vùng cao, rừng kín vùng thấp, rừng thưa. -Hệ sinh thái rừng ngập mặn: loại hình h ệ sinh thái đặc thù ở vùng triều cửa sông ,ven biển nước ta.Góp phần quan trọng trong việc bảo vệ đáy đai ,điều hòa khí hậu ,đòng thời là nơi sinh sống của nhiều loài động thực vật, là nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều loài thủy sản có giá trị. -Hệ sinh thái san hô:khu vực và thành phần rất phong phú duy trì trạng thái cân bằng của cả vùng nước -Hệ sinh thái đầm phá vùng vịnh:tập trung chủ yếu ở vùng ven vịnh nước ta, là nơi cư trú của trai, sò …,rong, tảo, sinh vật nơi cửa sông, các loài chim có gái trị. *Đa dạng loài ở Việt Nam: III.2 Bảng thống kê các loài sinh vật Việt Nam Động vật 275 loài thú 800 loài chim 180 loài bò sát 80 loài lưỡng cư 500 loài cá nước ngọt Trên 2000 loài cá biển 5500 loài côn trùng Thực vật: có khoảng 12000 loài 7000 loài đã định tên  2300 loài làm lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh,…  Có trên 700 loài cây thuốc được sử dụng để chăm sóc sức khỏe III.3.Nét độc đáo của nó: -Tính độc đáo đa dạng sinh học VN khá cao:gần 10% số loài động vật trên thế giới được tìm thấy ở VN;gần 40% loài thực vật thuộc loài đặc hữu. -Năm 1992-1998 phát hiện 4 loài động vật trong 10 loài mới phát hiện trên thế giới:Sao la, mang lớn ,mang trường sơn và mang pù hoạt.Hệ sinh thái ngập nước là nơi cư trú của nhiều loài động vật quý hiếm dang có nguy cơ tuyệt chủng:cò thìa, mang biển đầu đen,bồ nông.Về thực vật phát hiện 3 loài phong lan hoàn toàn không có lá, rất hiếm , không chứa diệp lục, sống nhờ vào đất mục, tỏi rừng có hoa gần như màu đen -. Có rất nhiều loài dộng vật có giá trị thực tiễn cao và nhiều loài có ý nghĩa lớn về bảo vệ như: Voi, Tê giác Giava, Bò rừng, Bò tót, Trâu rừng, Bò xám, Nai cà tông, Hổ, Báo, Cu ly, Vượn, Voọc vá, Voọc xám, Voọc mũi hếch, Sếu cổ trụi, Cò quắm cánh xanh, Cò quắm lớn, Ngan cánh trắng, nhiều loài trĩ, cá sấu, trăn, rắn và rùa biển. V. Những nguồn lợi do TNSH -Vn là một nước nông nghiệp với trình độ phát triển kinh tế chưa cao phải lệ thuộc rất nhiều vào tài nguyeen thiên nhiên nói chung và tài nguyên sinh học nói riêng. -cộng đòng trên lãng thổ Việt Nma đã sử dụng 2300 loài thực vật làm thực phẩm,thuốc chữa bệnh.Tổng sản lượng ước đạt 37,5 triệu tấn năm 2003, tăng 1,5% so với 2002. -Tài nguyên sinh học là bộ phận không thể thiếu trong sản xuát và tiêu dùng của đất nước ta.Gỗ và các sản phẩm từ gỗ có vai trò quan trọng trong cuộc sống hằng ngày và xuất khầu. VI. Sự mất dần đa dạng sinh học: -Sự giảm sụt diện tích rừng:1943 rừng che phủ 50% cả nước song hiện nay chỉ còn 33,2%.Năm 1995 rừng che phủ chỉ còn 28% .Sự suy giảm rừng gây ra những hậu quả vô cùng lớn đối với đa dạng sinh học350 loài thực vật và 300 loài động vật có mặt trong sách đỏ Việt Nam đang ở trong tình trạng báo động). Nguyên nhân làm suy thoái DDSH : -Phổ biến toàn cầu: khí hâụ, động đất.Có thể tái tạo lại trở lại được .Đáng lo ngại là các nguyên nhân từ con người. -Sự tăng dân số không bình thuờng:biểu hiện rõ nét ở Việt Nam. Từ 1994 đến nay tăng 10 triệu dân, đến 2004 là 845 triệu người. Dự báo với độ tăng hiện nay thì đến 2050 dân số Việt Nam sẽ là 158 triệu người. -Thương mại nông sản, lâm sản, hải sản, phá rừng trồng café -Việc hoạch định các chính sách thuế không thấy hết giái trị của môi trường và tài nguyên môi trường 1976 đến 1987: VN đã khai thác và xuất khẩu 11700 mẫu gỗ tròn.1986:22000km2 ; năm 1991: 240000m3 -Sự bất bình đẳng trong quản lí sở hữu - sự suy thoái DDSH bắt nguồn từ sự hủy hoại các hệ sinh thái khác: đất ngập mặn, hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái san hô cũng đứng trước nguy cơ bị tàn phá bởi con người VII. Sự cần thiết bảo vệ tài nguyên sinh học VII.1TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐA DẠNG SINH HỌC Vô cùng to lớn đối với sự phát triển bền vững của nhân loại .Có giá trị kinh tế,môi trường và cuộc sống nhưng chỉ mới ý thức được đầy đủ trong vài thập niên gần đây . • Cung cấp nguồn thức ăn cho con người thuộc nhiều chủng loại :vitamin,lipid,glucid ..tạo nguồn thức ăn vô tận được chế biến từ các nguyên liệu vốn có trong tự nhiên • Cơ sở hình thành các HST bảo đảm cho sự chu chuyển của Õy và các nguyên tó cơ bản khác trong các chu trình sinh địa hoá ,vật chất, năng lượng ,kiềm chế sự xói mòn đất , điều tiết dòng chảy ,duy trì sự ổn định và màu mỡ của đất đai tạo cơ sở cho sự tồn tại sự sống lâu dài trên Trái Đất • Vai trò lớn trong hoạt động kinh tế (dùng các loài thiên địch ) • Cung cấp vốn gen quý cho khoa học kĩ thuật • Là điều kiện bảo đảm phát triển ổn định tính bền vững của môi trường .Ngoài ra còn tạo cảnh quan thiên nhiên ,hình thành các cảm hứng nảy sinh các tác phẩm văn học ,thơ ,ca ,nhạc,hoạ,hình thành các khu du lịch • Nguyên liệu tạo ra các công cụ lao động ,nhà ở ,xuất khẩu nâng cao đời sống vật chất ,tinh thần VII.2SƯ TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI Nhằm thoả mãn nhu cầu cuộc sống mà con người vô tình hay h hữu ý khai thác bừa bãi,quá mức tài nguyên sinh học đã làm cho HST mất cân bằng ,cụ thể : • Dân số tăng nhanh mà tài nguyên đất thì không tự sản sinh như loài người • Khai thác quámức nguồn tài nguyên sinh học : đánh bắt cá ,khai thác rừng … • Ngành nông nghiệp còn mang tính du canh du cư +dùng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hoá học làm diện tích rừng bị thu hẹp , ô nhiễm đất ,vực nước , tiêu diệt một số loài thuỷ sinh • Kinh tế hoá toàn cầu :phát triển nhà máy ,XN,phát triển đô thị ,khai thác khoáng sản ,dầu … • Chiến tranh VII.3HẬU QUẢ “GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG”-Con người khai thác thiên nhiên nhằm nâng cao cuộc sống nhưng giờ đây con người phải trả giá cho những hành động thiéu ý thức của mình :môi trường sống bị đe doạ và đặc biệt là đang đe doạ đến tài nguyên sinh học • Nơi cư trú của sinh vật bị thu hẹp :rừng,san hô … • Nhiều loài đứng trước nguy cơ tuyệt chủng • Nguồn tài nguyên dần cạn kiệt • Khí hậu môi trường biến đổi –tiêu điểm hiện nay sự nóng lên của Trái Đất ,thủng tầng Ozon VI.4NHỮNG LỜI CẢNH BÁO 1. Ngày nay các nhà khoa học nghiên cứu cho rằng hơn 99% những sự tuyệt chủng là do con người-1 loài luôn muốn khẳng định sự bá chủ của mình đối với muôn loài .Việc con người khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên đang dần huỷ hoại môi trường 2. Các hoạt động du lịch thiếu bền vững ,xây dựng ,thăm dò ,khai thác thiếu quy hoạch ,các hoạt động công nghiệp đã tạo ra các nguồn khí thải độc hại làm cho khí hậu nóng lên ,tạo ra những lỗ thủng tầng Ozon …đe doạ trực tiếp đến sự sống Trái Đất 3. Mức độ tuyệt chủng đang nhân lên con số gấp 1000 lần tỷ lệ tuyệt chủng cơ sở :cứ mỗi giờ có 3 loài biến mất ,mỗi ngày có 150 loài bị mất đi ,mỗi năm có 18000-55000 loài động vật ,thực vật bị tuyệt chủng Theo ông Ahmed Djoghlaf,thư ký điều hành Ban thư ký công ước về ĐDSH đưa ra nhân ngày quốc tế về ĐDSH (22/5).Chủ đè ngày ĐDSH năm 2007 là “Sự biến đổi khí hậu và ĐDSH” VII.5KHẮC PHỤC Ở VN hằng năm thiên tai :hạn hán ,lũ lụt hoành hành gây thiệt hại nặng nề mà trong đó có nhẵng nỗi đau mất mát không thể bù đắplại được ;không những ở nước ta mà trên thế giới hiện nay cũng chịu tình trạng chung như vậy .Vì vậy mà chúng ta phải chung tay bảo vệ thiên nhiên có nghĩa là bảo vệ cho chính chúng ta. Đó là : • BẢo vệ rừng nhiệt đới , đất ngập nước,tài nguyên thuỷ hải sản • Phổ cập kiến thức và giáo dục cộng đồng đến người dân • Hợp tác Quốctế bảo vệ ĐDSH • Luật bảo vệ tài nguyên môi trường
oizoioi
oizoioi
Trả lời 16 năm trước
PHẦN I: MỞ ĐẦU Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta, rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn gĩư chức năng sinh thái cực kỳ quan trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai, bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí. Nhưng ngày nay, nguồn tài nguyên quý giá đó đang dần bị suy thoái. Những năm qua, nạn phá rừng, mất rừng ngày càng nghiêm trọng, hàng ngàn diện tích ha rừng càng bị thu hẹp lại. Mất rừng và suy thoái rừng gây nên hiện tượng sa mạc hoá và làm nghèo đất tại nhiều địa phương. Tình trạng đó đã tạo ra hàng loạt các tác động tiêu cực và thách thức sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường như gây lũ lụt, hạn hán gây khó khăn trong việc cung ứng lâm sản, làm giảm diện tích đất trồng khiến tình trạng nghèo đói và thất nghiệp ở nhiều khu vực càng đáng lo ngại hơn, đặc biệt suy thoái rừng làm phá vỡ các hệ sinh thái quan trọng… Vậy bắt nguồn từ những nguyên nhân nào mà nguồn tài nguyên rừng đ ang ngày càng bị suy thoái, và với rất nhiều nguyên nhân tác động trực tiếp nhưng có thể kể đến 7 nguyên nhân tiêu biểu sau đóng vai trò chính của việc góp phần làm suy thoái tài nguyên rừng Việt Nam, và những nguyên nhân trên tương đương với mức độ quan trọng của chính bản thân nó: 1.Chuyển đổi mục đích sử dụng đất 2.Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép 3.Cháy rừng 4.Sức ép dân số 5.Nghèo đói 6.Hậu qủa của cuộc chiến tranh để lại 7.Tập quán du canh du cư Đi vào tìm hiểu 7 nguyên nhân trên chúng ta có thể nhìn nhận được suy thoái rừng ở Việt Nam đang là vấn đề đáng lo ngại. PHẦN 2: THÂN BÀI 2.1 Chuyển đổi mục đích sử dụng đất Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Đặc biệt rừng ngập mặn ở Nam Bộ là những căn cứ kháng chiến vững chắc, nơi cất giấu vũ khí chuyển từ miền Bắc vào trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai. Do vị trí chuyển tiếp giữa môi trường biển và đất liền, nên hệ sinh thái rừng ngập mặn có tính đa dạng sinh học rất cao. Lượng mùn bã phong phú của rừng ngập mặn là nguồn thức ăn dồi dào cho nhiều loài động vật ở nước. Đây là nơi nuôi dưỡng nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm biển, cua, cá bớp, sò, ngán, ốc hương,... có tới 43 loài cá đẻ hoặc có ấu trùng sống trong rừng ngập mặn ở Việt Nam. Rừng ngập mặn là nơi cư trú và kiếm ăn của nhiều loài bò sát quí hiếm như cá sấu, kỳ đà hoa, rùa biển. Một số loài thú như rái cá, mèo rừng, khỉ đuôi dài cũng rất phong phú trong rừng ngập mặn. Đặc biệt rừng ngập mặn là nơi làm tổ, kiếm ăn, nơi trú đông của nhiều loài chim nước, chim di cư trong đó có một số loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Rừng ngập mặn là bức tường xanh vững chắc bảo vệ bờ biển, đê biển, hạn chế xói lở và các tác hại của bão lụt. Hệ thống rễ chằng chịt trên mặt đất thu hút và giữ lại các trầm tích, góp phần mở rộng đất liền ra phía biển, nâng dần đất lên; mặt khác chúng là hàng rào ngăn giữ những chất ô nhiễm, các kim loại nặng từ các sông đổ ra biển, bảo vệ các sinh vật vùng ven bờ. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả của việc phá rừng ngập mặn lấy đất nuôi tôm một cách bừa bãi như hiện nay là huỷ hoại môi trường, làm suy giảm mức sống của nhiều người dân nghèo ven biển, ảnh hưởng xấu đến chủ trương xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững của Chính phủ. Tác động của nghề nuôi tôm đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn, "tôm đến, rừng tan". Trong gần hai thập kỷ qua, được Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích nên nghề nuôi tôm nước lợ ở vùng cửa sông ven biển phát triển rất mạnh, vượt ra ngoài tầm kiểm soát và quản lý của ngành thuỷ sản và chính quyền một số địa phương. Mặt khác, do nguồn lợi nuôi tôm lớn hơn các loại sản xuất khác nhiều lần nên không những người dân địa phương mà rất nhiều người di cư bất hợp pháp ồ ạt kéo nhau đến các khu rừng ngập mặn ở Cà Mau, Bến Tre và một số nơi khác để phá rừng làm đầm tôm. Vào những năm 1980 và 1990, nhiều cơ quan nhà nước từ tỉnh xuống đến xã, một số đơn vị quân đội, công an cũng "tranh thủ" cơ hội biến những diện tích rừng lớn hàng trăm ha ở các huyện Ngọc Hiển, Đầm Dơi, Cái Nước (tỉnh Cà Mau) thành những nơi nhốt tôm, cứ 15 ngày lại tháo cống bắt kiệt tôm cá trong đầm. Do không nắm được kỹ thuật, việc thay nước triều khó khăn vì ít cống, nên môi trường thoái hoá, sản lượng giảm nhanh. Sau 3 - 4 năm, nhiều đầm phải bỏ hoang. Những người nuôi tôm lại tìm phá các rừng khác để làm đầm. Nhiều nơi trước đây có rừng ngập mặn khá tốt như phía tây bán đảo Cam Ranh, các huyện Ninh Hoà, Vạn Ninh (Khánh Hoà), nay hầu như đã bị xoá sổ do làm đầm ươm và nuôi tôm. Ở Đầm Nại (Ninh Thuận) hơn 200ha rừng ngập mặn tạo vành đai rộng hàng trăm mét bảo vệ cho đầm không bị xói lở, nay đã thay thế bằng các đầm tôm bán thâm canh, chỉ còn lại vài vệt đước và mắm chưa đầy 2ha. Cồn Chim nằm giữa đầm Thị Nại (Bình Định) trước đây có rừng ngập mặn gần 200ha, là nơi cư trú của nhiều loài hải sản, và là "thủ đô" của các loài chim (tên Cồn Chim bắt nguồn từ đó), gần đây đã bị gần 100 gia đình "khai tử" để làm đầm tôm. Tỉnh đang lập đề án để phục hồi hệ sinh thái (Báo Lao động số 22, ngày 22-1-2003). Còn rất nhiều dẫn chứng về các vụ phá rừng công khai hay vụng trộm ở nhiều địa phương chỉ vì đồng tiền làm mù quáng lương tri con người đối với thiên nhiên. Nhiều người chưa hình dung được sự suy giảm rừng ngập mặn nghiêm trọng đến mức nào. Đối chiếu với tài liệu của Maurand (1943), ta thấy một sự giảm sút đáng báo động về diện tích rừng trong 60 năm qua. Vào thời gian trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cả nước có 408.500ha rừng ngập mặn trong đó có 329.000ha ở Nam Bộ; Bến Tre có 48.000ha với độ che phủ rừng là 21,75%, nay chỉ còn 1,64%; Trà Vinh có 65.000ha, độ che phủ rừng 29,20%, nay còn 2,53%; Sóc Trăng có 41.000ha, độ che phủ 12,72%, nay chỉ còn 2,81%; Cà Mau có 140.000ha, độ che phủ 27%, nay chỉ còn 11,21%. Mất rừng ngập mặn là mất nơi sống, nơi sinh sản, vườn ươm của nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn. Nghiên cứu đầm tôm bỏ hoang ở cửa Nam Triệu (Hải Phòng) cho thấy sinh khối động vật đáy giảm tới 9 lần so với vùng lân cận còn rừng ngập mặn. Nhiều loài động vật ở cạn như bò sát, khỉ, đặc biệt là chim tụ tập rất đông ở trong vùng rừng ngập mặn, nhờ có nguồn thức ăn phong phú là tôm, cua, cá, sò trên bãi triều. Khi không còn rừng thì các động vật trên cũng bỏ đi nơi khác. Mặc dầu Chính phủ đã công nhận Vườn chim Bạc Liêu là khu bảo tồn thiên nhiên nhưng đến năm 2000 thì toàn bộ diện tích vùng đệm của khu bảo tồn đã biến thành đầm tôm. Hàng ngày, tiếng máy xúc gầm rú, đêm đến sáng rực ánh đèn cao áp, nước mặn trong các đầm đã thay thế hoàn toàn nguồn nước ngọt; thức ăn tôm cá cũng rất hiếm, thêm vào đó là các hoá chất độc hại trong các đầm tôm chảy vào vùng lõi khiến cho chim chết nhiều. Nếu không có biện pháp cấp bách giải toả các đầm tôm, đưa nước ngọt trở lại vùng đệm thì không thể cứu vãn sân chim nổi tiếng này - một sinh cảnh hấp dẫn có tính đa dạng sinh học cao ở Nam Bộ, đặc biệt là nơi nương náu của ba loài chim quý hiếm: cốc đế, giang sen, quắm đầu đen. Việc phá rừng ngập mặn làm đầm tôm không chỉ làm suy giảm tài nguyên đa dạng sinh học tại chỗ, mà còn làm mất nguồn thức ăn phong phú của nhiều sinh vật vùng triều, hậu quả là sản lượng cá, tôm, cua đánh bắt ở ngoài biển cũng giảm. Ở một số địa phương, những người nuôi tôm đã thải nước bẩn có hoá chất độc từ các đầm tôm ra rừng ngập mặn, làm cho cây chết. Ví dụ như khu rừng phòng hộ ở hai xã Chí Công và Bình Thạnh, huyện Tuy Phong, Bình Thuận, rừng cây bị chết nhiều do nước thải từ đầm tôm (Nguyễn Nguyên Vũ, Báo Lao động, số 190 ngày 9-7-2003). Tháng 8-2001 gần 6.000 lồng nuôi tôm hùm ngoài khơi làng Xuân Tú (Khánh Hoà) bị chết do các đầm nuôi tôm sú gần đó thải nước có hoá chất độc. Gần đây (6 tháng đầu năm 2003), ở vùng ven biển Thái Bình, Nam Định, ở nhiều bãi nuôi vạng (Meretrix meretrix), vạng bị chết hết, một số gia đình mất hết vốn, một số khác không có tiền trả ngân hàng. Nguyên nhân là do các đầm tôm đã thải nước có hoá chất độc hại nên vạng và các loài thân mềm khác bị đầu độc. Những người dân nghèo hàng ngày "mò cua bắt ốc" trên bãi triều cũng bị ảnh hưởng. Để nuôi tôm, nhiều nơi đã chặt hết cây ngập mặn hoặc đã giết chết cây bằng cách giữ nước trong đầm, khiến cho môi trường thoái hoá nhanh. Trước hết, các bộ phận cây chết bị phân huỷ trong điều kiện yếm khí sẽ tạo ra H2S và NH4 đầu độc các tảo phù du là nguồn thức ăn và nguồn cung cấp ôxy cho tôm. Mật độ tôm quá dày, chế độ ăn không thích hợp cùng các nguồn giống không chọn lọc sẽ tạo điều kiện cho bệnh ở tôm phát triển. Môi trường chứa các mầm bệnh này được thải ra các kênh rạch và gây hại cho nhiều động vật khác trong vùng rừng ngập mặn và ở vùng biển nông. Ấu trùng của loài muỗi sốt rét nước lợ (Anopheles sinensis) sống trong rừng ngập mặn, chúng ăn tảo tiểu cầu Chlorella - tảo này chỉ phát triển mạnh khi đủ ánh sáng. Lúc rừng ngập mặn còn tốt thì tảo không phát triển, nên số lượng muỗi hạn chế, ngược lại khi mất rừng thì bệnh sốt rét có nguy cơ bột phát. Thực tế đã chứng minh hiện tượng trên là đúng. Ở một số tỉnh ven biển miền Nam, bệnh sốt rét có chiều hướng tăng. Nhiều cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương chưa đánh giá đúng vai trò to lớn của hệ sinh thái rừng ngập mặn; buông lỏng quản lý trong việc sử dụng tài nguyên vùng ven biển có rừng ngập mặn; không kiên quyết xử lý việc phá rừng để nuôi tôm. Nhiều địa phương chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt là tôm xuất khẩu mà chưa tính đến hậu quả lâu dài do thiên tai và suy giảm tài nguyên khi không còn rừng, nên rừng bị tàn phá khắp nơi. Phần lớn các dự án nuôi tôm không thực hiện việc đánh giá tác động môi trường mà hình như các cơ quan hữu quan cũng không lưu ý nhắc nhở thực hiện luật pháp. Ngành lâm nghiệp cũng chưa quan tâm đến việc tuyên truyền giáo dục về lợi ích lâu dài của rừng ngập mặn nên việc đấu tranh để bảo vệ rừng của cộng đồng còn yếu. Vì mất nguồn sinh sống, một số người có thể biết là sai nhưng vẫn phải làm để nuôi gia đình, đó là dùng lưới mắt nhỏ, đăng bắt hết tôm tép hoặc dùng chất nổ, xung điện để huỷ diệt nguồn lợi. Một số người dân lao động cần cù, kiếm sống bằng con sò, con cua trong vùng rừng ngập mặn, chỉ vì không có tiền đấu thầu mảnh đất thân thuộc, đành phải chịu đói hoặc bỏ quê hương đi nơi khác. Một số khác cố vay mượn cho dù lãi suất rất cao để làm đầm tôm. Nhưng do thiếu vốn nên cống, bờ và mặt ao không đảm bảo cho việc thay nước triều thường xuyên, không đủ tiền mua thức ăn sạch cho tôm nên bị dịch bệnh hoành hành. Nhiều gia đình sau vài vụ đầu khấm khá nhờ môi trường chưa thoái hoá lắm, nhưng sau đó đã bị dịch bệnh lan tràn, bao nhiêu vốn liếng đổ ra biển và không trả được nợ phải bán ao tôm cho người giàu đầu tư và bỏ đi nơi khác, trong lúc những chủ đầm giàu, có tiền đầu tư kỹ thuật, giống, thức ăn tốt thì thu lợi nhuận rất cao. Họ không hình dung được sự giàu có đó đã cướp mất nghề truyền thống của nhiều bà con và làm cho sự phân cách giàu nghèo ngày càng tăng. Ngoài khai phá rừng để làm đầm tôm người dân còn phá rừng để trồng cà phê. Mặt khác, do thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành thuỷ sản và lâm nghiệp nên không những mất rừng, mà sự cân bằng sinh thái suy giảm và cuộc sống của cộng đồng ven biển bị xáo trộn. Có thể khẳng định, việc nuôi tôm và trồng cà phê không có quy hoạch là mối đe doạ lớn nhất đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn và làm giảm diện tích rừng. Nhà nước, các ban ngành hữu quan cần sớm có quy hoạch tổng thể, khảo sát thực tế và có biện pháp giải quyết, tránh để tình trạng "mất bò mới lo làm chuồng". 2.2 Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép. Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính con người tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử dụng dưới nhiều hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Với các mục đích khác nhau cho nên hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt động: khai thác gỗ, khai thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ. •Khai thác gỗ. Trong giai đoạn từ năm 1986-1991 các lâm trường quốc doanh đã khai thác trung bình 3,5 triệu m3 gỗ mỗi năm và nếu quy ra diện tích đất thì bằng 80.000 ha rừng, đó là chưa nói đến hậu quả của nạn khai thác trộm gỗ đã xảy ra khắp mọi nơi thậm chí cả trong các khu bảo tồn. Kết quả là rừng đã bị suy giảm nhanh chóng cả về diện tích lẫn chất lượng. Và theo số liệu thống kê gần đây thì có khoảng 41 loài cây lấy gỗ cho gỗ quý hiếm ( nhóm 1), 20 loài cho gỗ bền chắc ( nhóm 2), 24 loài cho gỗ đồ mộc và xây dựng ( nhóm 3 )…., loại rừng cho loại này chiếm khoảng 6 triệu ha. Ngày nay, khi giá gỗ tăng cao, con người đã không ngừng tiến hành khai thác các loài nhóm gỗ trên theo các mục đích của mình. Họ khai phá để phục vụ cho các công trình xây dựng như làm giàn giáo, cốppha. Đối với loài gỗ bền chắc thì họ khai thác để xây dựng nhà ở, đối với loài gỗ quý hiếm thì họ khai thác nhằm để bán và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xa xỉ của con người. Việc khai thác các loài gỗ quý hiếm để phục vụ mục đích kinh doanh xuất khẩu hiện nay đang là một nguồn lợi tức đáng kể cho quốc gia có trữ lượng lớn gỗ quý như Việt Nam. Chẳng hạn như gỗ Huê ( Pterocarpus macrocapus) trong những tháng gần đây được xuất khẩu sang Trung Quốc với giá rất cao có thể lên tới 600 triệu đồng/m3 gỗ. Cảnh chặt đốt rừng ở Tây Nguyên Vừa đáp ứng thị trường trong nước, vừa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu đang gia tăng như hiện nay cho nên con người luôn tìm mọi cách khai phá các nguồn gỗ quý để được bán trên thị trường. Với tốc độ đáng lo ngại nạn khai thác rừng chủ yếu diễn ra ở các khu rừng nhiệt đới đang dần đưa đến nguy cơ mất rừng. Như rừng Amazône là khu rừng nguyên sinh lớn nhất hành tinh hiện nay cũng đang bị khai phá nghiêm trọng cũng với tốc độ khai phá này thì chỉ trong vài mươi năm nữa thì khu rừng sẽ bị huỷ diệt hoàn toàn và lúc đó con người sẽ nhận những hậu quả khó lường xẩy ra do sự biến đổi khí hậu trên trái đất. •Khai thác củi . Đối với các loại gỗ ngoài giá trị xây dựng công trình, xây dựng nhà ở, phục vụ kinh doanh xuất khẩu thì những loại thực vật kém giá trị khác lại được con người khai thác với mục đích là làm củi đốt. Trong phạm vi toàn quốc, 90% năng lượng dùng cho gia đình là các sản phẩm từ thực vật, hàng năm 1 lượng củi khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong gia đình và lượng củi này nhiều hơn lượng gỗ xuất khẩu hàng năm. Hơn nữa, Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển, đời sống của người dân đang dần có sự biến đổi nhưng tỉ lệ thay đổi đó vẫn còn thấp. Nhiều người dân ở vùng miền núi và nông thôn chiếm một phần dân số đông so với cả nước, đã theo thói quen trong sinh hoạt họ chỉ dùng củi để làm nguyên liệu đốt và dùng với lượng củi khá cao. Những hộ gia đình nghèo không có đất sản xuất, vốn đầu tư đã vào rừng khai thác củi bán đều có thêm thu nhập. Với dân số 84 triệu người hiện nay, thì nhu cầu về lượng củi đốt như hiện nay cũng tăng theo. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho việc tàn phá rừng tiếp tục tiếp diễn. •Khai thác lâm sản ngoài gỗ. Ngoài khai thác gỗ quý hiếm còn khai thác củi thì khai thác lâm sản ngoài gỗ cũng là một sự tàn phá đến tài nguyên rừng. Đây có thể xem là nguyên nhân tác động làm suy kiệt tài nguyên rừng nhanh nhất. Lâm sản ngoài gỗ bao gồm các loài động vật quý, động vật hoang dã… và các loại thực vật mà cho các sản phẩm ngoài gỗ như: song, mây, tre, nứa, lá các loại cây thuốc, dầu… Tất cả các loài trên có thể được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu cho nên tình trạng khai thác, buôn bán trái phép, xuất khẩu các loài động vật thực vật đang được diễn ra mạnh mẽ. Ở Việt Nam trong những năm gần đây, việc buôn bán và xuất khẩu các sản phẩm từ động vật và thực vật quý hiếm, kể cả những loài được bảo vệ đang phát triển rất nhanh. Vì thiếu kế hoạch quản lý hợp lý, thiếu sự kiểm tra chặt chẽ trong việc khai thác tài nguyên sinh vật rừng mà ở nhiều vùng, một số loài động vật như tê giác, hổ, báo, voi, gấu, khỉ…, các loại cây như: pơmu, trầm hương, gõ đỏ…đã ngày càng trở nên rất hiếm. Nhiều loài động vật thông thường như: têtê, các loài rùa, rắn , baba, kỳ đà đang được xuất khẩu một cách nhộn nhịp sang Hồng Kông, Thái Lan và nhất là Trung Quốc trong thời gian gần đây đang là mối đe doạ lớn đối với sự tổn thất về tài nguyên rừng. Giá trị xuất khẩu cao của các loài nói trên cùng với sự kém hiểu biết, hám lợi nhuận đã thúc đẩy con người tìm cách săn bắt chúng ở khắp mọi nơi. Cùng xuất phát từ sự nghèo đói mà người dân đổ xô vào rừng khai thác các nguồn lâm sản ngoài gỗ. Hiện nay, người dân ở huyện miền núi, huyện Vĩnh Thạnh ( Bình Định) lại kéo nhau vào rừng tìm kiếm vàng, hoạt động trái phép này đang tàn phá rừng đầu nguồn, hồ chưa nước đang đứng trước nguy cơ bị san lấp. Vì chạy theo kinh tế mà người dân chặt phá rừng, chẳng hạn như rừng luồng – là nguồn thu nhập chính của người dân cũng đang ở tình trạng bị chặt phá rất nghiêm trọng. Luồng khi chưa đủ tháng tuổi ( một cây luồng sau 3 năm tuổi mới cho chất lượng tốt) nhưng hiện nay cây luồng 2 năm tuổi đã bị chặt ngang mang đi bán dẫn đến trữ lượng, chất lượng luồng ngày bị giảm sút và khả năng sinh măng luồng cũng giảm. Chỉ vì khai thác quá mức để bán ra các tỉnh và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất đũa, chiếu và làn giàn giáo cho các công trình xây dựng mà dẫn đến suy thoái các rừng luồng nghiêm trọng. Và đang còn rất nhiều hoạt động khai thác các loài động vật thực vật khác theo từng mục đích riêng ảnh hưởng tới môi trường. Các hoạt động khai phá trái phép này kéo dài âm ỉ, liên tục, tốc độ của sự phục hồi rừng không kịp với tốc độ phá rứng cho nên rừng đang bị suy thoái. Cần có các biện pháp tích cực để ngăn chặn và làm giảm các hoạt động trái phép này. 2.3. Cháy rừng. Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác của con người như đốt lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi… những nguyên nhân này đều có thể khiến rừng bị cháy. Cháy rừng U Minh Hạ 3/2002 Bảng 1: Số liệu cháy rừng năm 2007 của một số tỉnh trên địa bàn Việt Nam từ 01/01/2007 đến 31/03/2007. ( Đvt: ha ) Địa điểmSố vụ cháy Tổng diện tíchrừng tự nhiên Rừng trồng Số vụ được cứu Huế 42.79 2.790 Bắc Giang1339.503.0036.5013 Cao Bằng611.651.0010.656 Hà Giang22.462.400.062 Lai Châu1791.488.3283.1617 Với tổng diện tích là 2.304,07 ha; diện tích rừng tự nhiên 962.79 ha; diện tích rừng trồng là: 1.341,28 ha; số vụ được cứu là 440 vụ so với năm trước là 138 vụ cháy với tổng diện tích là 551.40 ha. Kết quả này cho thấy số vụ cháy rừng năm nay cao hơn và đang ở mức cảnh báo như: 6.000 ha rừng ở Đồng Tháp có nguy cơ cháy, Rừng An Giang báo động nguy cơ cháy cấp độ 5, nhiều khu vực đang ở cấp cảnh báo cháy rừng cực kỳ nguy hiểm như Nghệ An, Thừa Thiên Huế… Và hầu hết các diện tích rừng bị cháy đều nằm trong những vùng nhạy cảm như rừng đầu nguồn, đất dốc, vùng sinh thái đất ngập nước, rừng tràm, vùng rừng chống cát di động nên dễ gây lũ quét, xói lở, đất dễ bị khô hạn và thoái hoá. Cháy rừng sẽ nhanh chóng lan ra trên một diện tích rộng lớn và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất nghiêm trọng. Sự phục hồi và tái tạo lại rừng trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên rừng đang cạn kiệt dần đi. Do vậy, đòi hỏi ý thức bảo vệ của người dân và cần có sự quản lý chặt chẽ, sự quan tâm nguồn tài nguyên rừng của ngành kiểm lâm để hạn chế được sự suy giảm diện tích tài nguyên rừng. 2.4 Sức ép dân số Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa dạng sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong sinh hoạt và các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Sự gia tăng về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm trọng về các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Khi chưa có sự xuất hiện của con người, rừng che phủ hầu hết đất đai của các lục địa, trong lịch sử phát triển của loài người vào thời kì đồ đá cũ, con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào rừng bằng các hoạt động săn bắt và hái lượm, các hoạt động này không gây thiệt hại gì cho rừng. Đến khi con người bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt thì con người có những hoạt động tác hại đến rừng, mặc dù các tác động này có phần nào hạn chế sự phát triển của rừng nhưng cũng chưa đáng kể lắm. Từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên trở về sau thì rừng mới thực sự bị con người tấn công khai phá. Sự tấn công khai phá rừng ngày càng được thấy rõ nét hơn, khi dân số đông dần lên, nông nghiệp ngày càng mở rộng đồng thời nghề luyện kim xuất hiện. Con người đốt rừng để trồng tỉa, lấy gỗ để làm nhiên liệu, đồ gỗ làm thuyền làm bè… Cứ như thế rừng bị thu hẹp dần. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, đời sống của con người dần được nâng lên, nhu cầu trong đời sống của họ cũng dần tăng cùng theo đó. Và dần dần, dân cư ngày càng tập trung ở các đô thị để dễ dàng trao đổi buôn bán… thoã mãn nhu cầu của họ, gây nên tình trạng mất cân đối giữa dân cư ở nông thôn và thành thị. Người dân ồ ạt ra thành thị kiếm sống dẫn đến tình trạng đô thị hoá, đòi hoỉ nền kinh tế ở khu vực này phải phát triển tương đồng để đáp ứng đầy đủ việc làm cho người dân. Và khi nhu cầu con người trong tất cả các lĩnh vực tăng cao, nhu cầu việc làm cũng tăng thì các nhà máy, xí nghiệp, các công ty, cơ sở chế biến… bắt đầu được hình thành. Nhưng diện tích đất thành thị chỉ chiếm một phần rất nhỏ cho nên tất cả các hoạt động tiêu dùng và sản xuất, khai thác chế biến không thể diễn ra ở đây, chẳng hạn như xây dựng nhà máy xi măng, nhà máy gạch, các nhà máy chế biến nguyên liệu mía, sắn… thì không thể xây dựng trong địa bàn thành thị vì lí do đảm bảo đầu vào nguyên liệu dễ dàng, đảm bảo môi trườmh không bị ô nhiễm ở thành thị thì buộc họ phải chuyển đến một nơi cách xa thành thị, cách xa nơi sinh sống, chuyển đến một địa bàn nào đó để xây dựng cở sở sản xuất cho mình. Và dần họ lấn chiếm vào rừng, nơi có diện tích khá rộng và tiến hành khai thác tàn phá rừng để xây dựng các nhà máy xí nghiệp. Và tại các vùng nông thôn thì dân số tăng thì buộc người dân phải mở rộng diện tích đất canh tác để sản xuất đủ lương thực đảm bảo cho cuộc sống. Điều tất nhiên là người dân không thể mở rộng diện tích đất sản xuất xuống cac vùng đô thị, diện tích đất đồng bằng chiếm phần rất ít thì buộc họ phải tiến sâu vào rừng, bất đầu chặt phá rừng để lấy đất tiến hành sản xuất. Ban đầu chỉ khai thác một phần diện tích nhỏ và sau một thời gian dài, ngoài nhu cầu mở rộng đất canh tác mà nhu cầu về nhà ở của con người cũng tăng lên. Do nền kinh tế phat triển, giá cả đất tại các đô thị rất cao nhưng người dân họ không đủ khả năng để mua nhà tại các vùng đồng bằng và đương nhiên họ sẽ chuyển lên địa bàn mà nơi họ có khả năng mua nhà ở và rừng được xem là địa bàn sinh sống tiềm năng. Khi dân số tăng nhanh không những nhu cầu về việc làm, nhà ở tăng mà bên cạnh đó nhu cầu giả trí ăn uống du lịch… của con người cũng tăng nhiều hơn khi đời sống người dân được nâng lên họ muốn được ăn những thứ ngon, những thứ lạ, dùng những sản phẩm độc đào từ thên nhiên, muốn có nguồn vật liệu xây dựng như sản phẩm từ gỗ quý hiếm như: giáng hương ( Pterocarpus macrocarpus), gụ (Sindora siamensis), sao đen ( Hopea odaratu). Có cầu ắt sẽ có cung và con người lại tiếp tục vào rừng tìm kiềm các loài động thực vật quý hiếm để săn bắt, khai thác với mục đích bán cái trên thị trường cần để có thêm thu nhập. Tài nguyên rừng thì có hạn mà nhu cầu con người thì ngày càng tăng và chỉ trong một thời gian ngắn các loài động vật, thực vật quý hiếm đã bị khai thác cạn kiệt, thậm chí có nguy cở bị tiêu diệt làm cho số lượng và chủng loài sinh vật ngày càng giảm đi. Vậy có thể nói sức ép dân số cũng tác động mãnh mẽ đến sự suy thoái tài nguyên rừng, con người cần có sự khai thác hợp lý có kế hoạch để hạn chế tình trạng kahi thác rừng bừa bài làm giảm tài nguyên rừng một cách đáng kể. 2.5 Nghèo đói Suy thoái môi trường có nhiều nguyên nhân trong đó một phần là do sự đói nghèo tác động nên. Đói nghèo luôn đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất đã dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức làm tăng sự khan hiếm và suy thoái. Với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là một nước nông nghiệp phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên. Đất nông nghiệp ở nhiều nơi thiếu nghiêm trọng và nhiều người phải sống dựa vào rừng, đời sống rất thấp khoảng 50% gia đình thuộc vào diện đói nghèo. Vì thiếu ruộng, thiếu vốn đầu tư những người nghèo đói thường phải đến sinh sống tạo những nơi có điều kiện không thuận lợi mà cần ít vốn đầu tư phải bóc lột đất và tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống làm cho các loại tài nguyên nay dần bị suy thoái nhanh chóng. Nhưng cũng phải chứng tỏ một điều là: nghèo đói không đồng nghĩa với việc được tàn phá rừng như hoạt động khai thác gỗ, củi, đặc sản rừng… để đem đi bán. Nhưng vì nghèo, không có đất sản xuất, không có vốn đầu tư, buộc họ phải tàn phá để nuôi sống bản thân và gia đình họ, có thể số củi, gôx mà họ khai thác được chỉ bản ra với giá là 50.000 đồng nhưng số tiền đó lại nuôi được gia đình họ trong một tuần. nếu thu nhập một người/ ngày mà thấp hơn 15.000 thì được xét là hộ nghèo thì những hộ gia đình ố lại có cuộc sống khó khăn hơn. Các hoạt động khai phá của họ cũng một phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho những người giàu có, phục vụ mục đích kinh doanh cho những con người có tiền bạc. Tuy hoạt độngấnỳ mang tính nhỏ lẻ, manh múm, không ồ ạt nhưng lại được lặp đi lặp lại trong một thời gian khá dài nên rất khó quản lý và gây nên tình trạng cạn kiệt dần của tài nguyên rừng. Khi rừng ngày càng giảm về số lượng cây trồng, vật nuôi hay diện tích rưùng bị thu hẹp đã dẫn đến hiện tượng hạn hán lũ lụt, khả năng ngăn chặn xói mòn đất là rất kém. Cho nên mỗi lần thiên tai ập đến lại chính những người nghèo tiếp tục gánh chịu tổn thất nặng nề hơn do phải sống gần rừng. Vốn dĩ họ đã nghèo nay lại càng nghèo hơn, sự nghèo đói luôn xây quanh cuộc sống của họ, dường như họ khó có thể thoát ra được cuộc sống tiếp tục phá rừng lấy gỗ,củi, đặc sản rừng bán để có thu nhập. Vì mục đích là có thu nhập nuôi sống gia đình mình mà các hộ dân nghèo đói đang dần dần làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vậy cần có các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho hộ nghèo đói như các chương trình phát triển ngành nghệ phụ… để giảm bớt hiện tượng khai thác rừng. 2.6 Hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học để lại. Cuộc chiến tranh hoá học chính là những cuộc chiến tranh bằng chất độc da cam/đioxin mà quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng và rải lên đất nước Việt Nam trong các cuộc chiến tranh. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 2, quân đội mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh hoá học với quy mô lớn nhất trong mọi thời đại của lịch sử. Trong cuộc chiến tranh này, quân đội Mỹ đã rải khoảng hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ và phát quang xuống một diện tích khoảng 24,67% tổng diện tích lãng thổ Việt Nam. Trong đó, phần lớn là chất độc da cam, là chất có chứa tạp chất độc đioxin. Nồng độ các chất được rải trong các phi vụ thường cao hơn gấp từ 20-40 lần nồng độ dùng trong Nông nghiệp và các chất diẹt cơ và phát quang thông thường được phân huỷ sau 1 tháng hoặc đến dưới 1 năm, riêng hợp chất đioxin có trong chất da cam rất bền vững, với thời gian bán phân huỷ được ước tính khoảng 15-20 năm hoặc lâu hơn nữa. Với số lượng rất lớn chát độc hoá học đã rải, lặp đi lặp lại nhiều lần trong một quãng thời gian dài với nồng đọ cao, chúng ngấm và dần phân huỷ trong đất, không những đã làm chết cây cối mà còn gây ô nhiễm môi trường trong một thời gian dài và làm đảo lộn các hệ sinh thái tự nhiên. Những hậu quả tức thời và lâu dài của chất độc hoá học đối với tài nguyên và môi trường rừng là rất rõ ràng. Trong quá trình bị tác động, hàng trăm loài cây đã bị trút lá, đáng quan tâm nhất là những cây gỗ lớn thuộc tầng nhô và tầng ưu thế sinh thái thuộc họ dầu ( Dipterocarpaceae), họ đậu ( Fabaceae). Nhiều loài cây gỗ quý hiếm như giáng hương ( Pterocarpus macrocarpus), gụ ( Sindora siamensis), sao đen ( Hopea odorata)… và một số cây họ dầu thuộc tầng cao trong rừng đã bị chết dẫn đến khan hiếm nguồn hạt giống củamột số loài cây quý. Tán rừng bị phá vỡ, môi trường rừng bị thay đổi nhanh chóng, những loài cây của rừng thứ sinh như tre, nứa, các loài cây gỗ ưa ánh sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế thì chúng xuất hiện và lấn át cây gỗ bản địa. Nhiều khu rừng đã bị phá huỷ nặng nề do quy mô phá hoại rộng lớn và lặp đi lặp lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, kèm theo với các tác động khác của bom đạn… Hậu quả là cây rừng bị chết đi, các loài cây cỏ dại như cỏ Mỹ ( Pennisetum polystachyon), cỏ tranh(Imperate cylindrica), lau lách xâm lấn và đến nay rừng vẫn chưa được phục hồi. Và theo tính toán sơ bộ, trên 3,3 triệu ha đất đai tự nhiên bị rải chất độc trong đó rừng nội địa bị tác động nặng nề với nhiều mực độ khác nhau, làm tổng số gỗ bị thiệt hại là 119.536.000 m3, bao gồm lượng gỗ bị mất tức thời 90.284.000m3 gỗ tăng trưởng lâu dài do rừng bị phá huỷ. Ngoài ra, chất độc hoá học rải lên rừng còn gây thiệt hại nhiều cho các loại tài nguyên khác ngoài gỗ chưa được tính đến như dầu nhựa, cây thuốc, song mây và các loài động vật rừng. Và hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ rải xuống còn dẫn đến nhiều thiệt hại khác về môi trường và tính đa dnạg sinh học làm cho quá trình trút lá ồ ạt đã dẫn đến hiện tượng ứ đọng dinh dưỡng và có 10-15 triệ hố bom chiếm khoảng 1% diện tích rừng Nam Việt Nam làm cho lớp đất mặt bị đảo lộn và thúc đẩy quá trình rửa trôi đất. hậu quả trên cản trở trực tiếp đến diễn thế phục hồi rừng và tác động xấu đến rừng phòng hộ đầu nguồn. Tuy những năm gần đây, cây rừng cũng đã được chăm sóc, được đầu tư phát triển thêm nhưng chất lượng và số lượng vẫn không được cao. Qua phân tích trên chúng ta thấy rằng hậu quả mà cuộc chiến tranh hoá học để lại là giảm diện tích rừng, làm cho tài nguyên rừng Việt Nam bị tổn thương rất nặng nề. Mặc dù, đã trải qua trên 30 năm nhưng vết thương đó vẫn chưa lành, diện tích rừng thì có nhiều biến đổi theo xu hướng suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chiến tranh hoá học của Mỹ đã để lại một hậu quả tàn khốc lên tài nguyên rừng Việt Nam. 2.7 Tập quán du canh du cư. Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít người ở Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên. nơi nhằm ổn định sản xuất và đời sống trong một phạm vi lãnh thổ cố định. Vào mùa khô và thường là cuối mùa đông( miền Bắc Việt Nam), người dân thường vào sâu trong rừng tìm một khoảnh đất rừng phù hợp, đốt cháy mảnh diện tích đủ rộng theo ý muốn( thường là không thể điều khiển theo mục đích người đốt vì lửa rừng bị tác động của gió và độ ẩm, nhiệt độ tại khoảnh rừng). Và đến đầu mùa mưa, người ta đi tra hạt( chủ yếu là ngô), hoặc ươm sắn, lợi dụng lượng nước ẩm do mưa, hạt giống sẽ nảy mầm, cây sinh trưởng rất tốt do đất dưới tán rừng có hàm lượng dinh dưỡng rất cao và cũng nhờ than tro của việc đốt rừng tiến hành. Nhưng người dân canh tác ở đây lại ít có tác động tới cây trồng mà chủ yếu là thoái mặc chúng cho tự nhiên và tới mùa thì thu hoạch. Thông thường chỉ sau 3-4 mùa rẫy, do nước mưa rửa trôi và xói mòn, mặt khác lại không được bổ sung các chất dinh dưỡng nên đất rẫy sẽ nghèo dinh dưỡng, cây trồng phát triển kém. Lúc này, người dân sẽ bỏ rẫy cũ, tìm đến một khoảnh rừng mới và lại đốt rừng thành rẫy. Cuộc sống của họ thường gắn bó với rẫy nên cả gia đình, bản làng cùng di cư theo rẫy. Và đây chính là tập quán du canh du cư, là một tập tục cũ, lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, cuộc sống người dân bấp bênh gây thoái hoá đất, mất rừng. Vì tập tục này thường xuất hiện ở các vùng miền núi nên cũng có thể hiểu rằng, họ không có đất để sản xuất và trình độ hiểu biết của người dân miền núi vẫn đang còn hạn chế, chỉ vì mưu sinh cuộc sống qua ngày nên họ chỉ tập trung sản xuất trong một thời gian rất ngắn đáp ứng nhu cầu hiện tại của họ, người dân phó mặc thiên nhiên mà không có đầu tư, chưa có hiểu biết kỹ thuật canh tác để có năng suất cao hơn và chưa nắm rõ hậu quả của việc đốt nương làm rẫy của họ có thể tàn phá cả một diện tích rừng rông lớn. Sinh sống tại miền núi thì tiến hành sản xuất tại nơi sinh sống, nhưng địa hình miền núi phức tạp, khó sản xuất trên phần diện tích này nên người dân càng không quan tâm tới những hoạt động sản xuất của mình. Mặt khác, cùng với việc gia tăng dân số mà tập quán du canh du cư trở thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là đã tạo nên cả một vùng đất trrống đồi núi trọc như hiện nay. Tăng dân số đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất để sản xuất thêm lương thực phẩm đáp ứng với cuộc sống của con người. Và điều tất nhiên là những người dân sinh sống ở miền núi họ không thể mở rông diện tích dất canh tác xuống vùng đồng bằng được vì theo thói quen sinh sống của họ, thói quen trong sản xuất, hơn nữa diện tích đồng bằng chỉ chiếm một phần rất nhỏ không đủ để họ tiến hành canh tác. Cho nên người dân phải lấn sâu vào rừng để mở rộng đất sản xuất và họ tiếp tục đốt nương rừng tạo rẫy canh tác. Diện tích rừng cứ thế được đốt cháy nhưng lại không có sự đầu tư cũng không có sự tái tạo thì chắc chắn diện tích rừng sẽ dần bị co hẹp lại theo thời gian. Ngày nay, thủ tướng Chính phủ cũng đã banh hành Quyết Định về chính sách hỗ trợ định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010 trên phạm vi cả nước để có thể dần khôi phục diện tích rừng và với 70% số điểm định canh, định cư tập trung có đủ các công trình cơ sở hạn tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đường giao thông, điện thuỷ lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công trình thiết yếu khác; 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư được tổ chức định canh định cư theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt…để dần không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2-3% số hộ nghèo. Tuy đã có chính sách hỗ trợ nhưng theo thói quen trong sản xuất, trong sinh hoạt, bước đầu họ khó thích nghi với cuộc sống mới nên tình trạng khai thác rừng vẫn diễn ra. Cùng với sự gia tăng dân số, cùng với sự hiểu biết ít của mình thì tập quán du canh du cư của những người dân sinh sống tại miền núi cũng đang là nguyên nhân trực tiếp gây nên hiện tượng suy thoái rừng, làm giảm sự đa dạng của rừng. PHẦN III. KẾT LUẬN Với diện tích rừng Việt Nam là 14 triệu ha vào năm 1945 đến hiện nay chỉ còn lại 6,5 triệu ha, như vậy trung ình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp tù 160-200 ngàn ha…. Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về diện tích là do khai hoang trong chiến tranh, do tập quán sống du canh của một số dân tộc ở vùng cao, do cháy rừng, do sự khai phá bừa bãi lấy gỗ lấy đất canh tác…, nguồn tài nguyên động vật đa dạng của rừng Việt Nam cũng bị giảm sút nghiêm trọng là do sự săm bắt thú bừa bãi để lấy lông, da, thịt, sừng và các sản phẩm khác để làm thuốc, còn do việc buôn lậu thú quý hiếm ra nước ngoài… Trong 4 thập kỷ qua theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim đã bị tuyệt chủng và 120 loài thú đã bị diệt vong. Tất cả hậu quả trên đều do con người trực tiếp gây ra. Và qua phân tích ở trên chúng ta thấy cả 7 nguyên nhân đều có mói liên hệ mật thiết với nhau, cùng tác động và chi phối lẫn nhau, đều tác động trực tiếp làm ảnh hưởng tài nguyên rừng, làm suy thoái tài nguyên rừng rất nhanh. Vấn đề đặt ra cho các ban ngành kiểm lâm cần có những chính sách tác động để bảo vệ tài nguyên rừng, có sự kiểm soát chặt chẽ với những hành động khai thác trộm bừa bãi các động thực vật quý hiếm. Cần tuyên truyền cho người dân biết tác hại của vấn đề tàn phá rừng để tăng ý thức bảo vệ cộng đồng làm cho rừng Việt Nam ngày càng đa dạng hơn về chủng loại và số lượng.