Truyền dịch - Khi nào cần?

newvisionlaw
newvisionlaw
Trả lời 10 năm trước

Một thực tế cho thấy nhiều người khi cảm thấy mệt mỏi, ăn uống kém, ngủ ít là nghĩ ngay đến việc truyền dịch nhằm phục hồi sức khỏe. Vậy dịch truyền là gì, khi nào cần truyền dịch? Việc lạm dụng hoặc dùng sai chỉ định có thể dẫn đến tai biến gì?

Thực trạng đáng suy ngẫm


Chị N.T.H.V. phấn khởi sau khi được truyền dịch ở một phòng khám tư. Chị phàn nàn rằng cả tuần qua chị thấy người mệt mỏi, ăn không ngon miệng, ấy thế mà khi tới trung tâm y tế gần nhà đề nghị được truyền dịch, các bác sĩ ở đây lại từ chối, bảo không cần thiết... Đến khi ra phòng khám tư, người ta vui vẻ truyền dịch cho chị ngay. Đúng là vừa nhanh, vừa tiện...

Trên thực tế, không hiếm người như chị H.V, hễ cứ thấy trong người mệt mỏi là thích đi truyền... “đạm”. Nhiều người chỉ bị đau đầu nhưng cứ nằng nặc đòi vô “nước biển”. Khi gặp bác sĩ, dược sĩ có chuyên môn khuyên không nên thì họ tỏ ý không bằng lòng và tìm đến nơi khác để được thỏa mãn nhu cầu. Điều đáng nói ở đây là người muốn “tiếp nước” không hiểu rằng việc làm này là không cần thiết, tốn kém tiền bạc, thời gian, chưa kể có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.

Không chỉ tại một số phòng khám tư mới có tình trạng truyền dịch xảy ra vô tội vạ, mà ngay tại một số gia đình có người già, người ốm cũng mời y tá đến truyền dịch tại nhà.

Tình trạng này đặc biệt phổ biến ở nông thôn, thị trấn, thị tứ, nơi kiến thức về chăm sóc sức khỏe của người dân còn hạn chế, việc giám sát hành nghề y dược tư nhân còn lỏng lẻo. Những người đòi hỏi được truyền dịch chỉ hiểu một cách sơ sài rằng dịch truyền là chất “bổ”, nên cứ thấy mệt là muốn bổ sung, họ không biết rằng các loại dịch truyền đều là thuốc dạng đặc biệt, chỉ được dùng khi bác sĩ khám và kê đơn.

Dịch truyền là gì?

Dịch truyền là loại dung dịch hòa tan chứa nhiều chất khác nhau, có thể tiêm chậm hoặc truyền trực tiếp vào tĩnh mạch người bệnh. Phần lớn dung môi sử dụng là nước cất, ngoài ra có thể sử dụng một số loại dung môi khác để hòa tan dược chất. Hiện có khoảng trên 20 loại dịch truyền được chia thành ba nhóm cơ bản đó là: nhóm cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể: (glucose các loại 5%, 10%, 20%, 30% và các dung dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin); nhóm cung cấp nước và các chất điện giải, dùng trong trường hợp mất nước, mất máu (dung dịch lactate ringer, natri clorua 0,9%, bicarbonate natri 1,4%...) và nhóm đặc biệt (huyết tương tươi, dung dịch chứa albumin, dung dịch dextran, haes-steril, gelofusin hay dung dịch cao phân tử...) dùng trong các trường hợp cần bù nhanh chất albumin hoặc lượng dịch tuần hoàn trong cơ thể.


Kỹ thuật truyền dịch tuy đơn giản, nhưng chỉ được thực hiện tại cơ sở y tế có đủ dụng cụ cấp cứu khi có tai biến xảy ra.

Khi nào cần truyền dịch?


Trong cơ thể của mỗi con người đều có các chỉ số trung bình trong máu, về các chất đạm, đường, muối, các chất điện giải... Nếu một trong các chỉ số trung bình trên còn thấp hơn mức độ chỉ số bình thường cho phép thì lúc đó chúng ta mới bù đắp. Để quyết định bệnh nhân có cần truyền dịch hay không, các bác sĩ thường hay dựa vào các kết quả của xét nghiệm để thấy được trường hợp nào cần thiết và trường hợp nào chưa cần thiết để truyền bổ sung và số lượng bổ sung là bao nhiêu. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt dù các bác sĩ chưa có được những kết quả xét nghiệm vẫn phải cho bệnh nhân truyền dịch, đó là khi bệnh nhân bị mất nước, mất máu, suy dinh dưỡng nặng, bị ngộ độc, trước và sau khi phẫu thuật...

Những nguy hiểm có thể xảy ra khi truyền dịch không đúng

Mặc dù kỹ thuật truyền dịch khá đơn giản nhưng những tai biến có thể xảy ra rất bất ngờ, đột ngột. Do đó, việc truyền dịch làm sao cho an toàn, đảm bảo không tai biến, không dị ứng, sốc, nhiễm khuẩn, phù não, rối loạn điện giải lại là chuyện không phải ai cũng có thể kiểm soát. Do vậy, về nguyên tắc việc truyền dịch phải được tiến hành ở cơ sở y tế có cán bộ chuyên môn có dụng cụ và thiết bị xử lý các tai biến.

Các tai biến khi truyền dịch có thể xảy ra từ nhẹ đến nặng. Nhẹ thì gây sưng phù, đau tại vùng tiêm truyền. Nặng hơn có thể gây viêm tĩnh mạch nhất là khi truyền các loại nước biển ưu trương. Nhưng một tai biến nguy hiểm có thể đến bất ngờ, đó là phản ứng toàn thân. Lúc đó, bệnh nhân cảm giác rét run, sắc mặt tái nhợt, vã mồ hôi, khó thở, đau ngực. Khi gặp tình huống này, phải được nhân viên y tế có chuyên môn, kinh nghiệm xử trí kịp thời nhằm tránh những diễn tiến nguy hiểm hơn.

Người dân đừng nghĩ dịch truyền một biện pháp tối ưu cho sức khỏe, bởi dịch truyền chỉ thực sự có lợi khi cơ thể chúng ta cần thiết. Việc truyền dịch chỉ an toàn khi có chỉ định của bác sĩ xác định cơ thể bệnh nhân đang trong tình trạng như thế nào và cần những loại dịch truyền gì. Cần tuân thủ tuyệt đối các quy định trong truyền dịch về tốc độ, thời gian, số lượng, dụng cụ phải đảm bảo vô khuẩn tuyệt đối.

Ngoài ra, nơi truyền dịch phải có đủ các điều kiện xử lý chống sốc để phòng sự cố. Người truyền dịch phải có trình độ chuyên môn. Điều quan trọng là người bệnh phải được theo dõi thật sát trong suốt quá trình truyền dịch, để khi xảy ra tai biến hay biến chứng sẽ được xử trí cấp cứu kịp thời.

hãy liên hệ:http://suckhoe.xmen360.com/diendan chúng tôi sẽ giúp bạn

thu
thu
Trả lời 10 năm trước
Dịch truyền được sử dụng để nuôi ăn trong trường hợp bệnh nhân không thể ăn hoặc hấp thu các chất dinh dưỡng qua đường tiêu hoá. Việc bù đường, muối và các chất điện giải chỉ nên tiến hành khi hàm lượng những chất này trong máu thấp hơn mức cho phép.
Bác sĩ thường dựa vào kết quả xét nghiệm để quyết định có truyền dịch hay không. Trong một số trường hợp, tuy chưa có kết quả xét nghiệm nhưng thầy thuốc vẫn phải truyền dịch cho bệnh nhân: trước và sau khi phẫu thuật, khi người bệnh bị mất nước, mất máu, suy dinh dưỡng nặng, ngộ độc…

Các loại dịch truyền

1. Nhóm cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể, dùng trong các trường hợp suy kiệt, ăn uống kém:

- Dường hay còn gọi là dịch ngọt chứa đường glucoza: Có tác dụng cung cấp năng lượng cho cơ thể. Dung dịch glucoza có nhiều loại: 5% (cứ 100 ml nước thì có 5 g glucoza), 10%, 20%, 30%. Nửa lít glucoza 5% cung cấp năng lượng tương đương ăn một bát cơm.

Được chỉ định truyền khi cơ thể bị hạ đường huyết hoặc nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch đối với các bệnh nhân không hấp thu được thức ăn qua đường miệng. Dịch này có nhiều nồng độ khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.

+ Dịch 5% có nồng độ thẩm thấu bằng huyết tương nên có thể bù dịch khi cơ thể bị mất nước hay bệnh nhân không uống được.

+ Nồng độ 20% chứa nhiều glucose hơn, dùng để giải độc và nuôi dưỡng khi bệnh nhân không ăn được bằng miệng.

- Dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin: như Alversin 40, Amino – Plasmal 5%, Nutrisol 5%, Vitaplex, Lipofundin… dùng trong các trường hợp suy kiệt, suy dinh dưỡng. Các sản phẩm này rất đắt tiền.

Đạm hoa quả (Vitaplex):
Thực chất không phải là đạm mà chỉ là các vitamin. Loại này được chỉ định dùng khi cơ thể bệnh có dấu hiệu suy nhược kéo dài hoặc bệnh lý kéo dài, những người bệnh thiếu hụt các vitamin.

Nhiều người lạm dụng loại này để làm đẹp da nhưng thực tế, việc truyền phải được chỉ định của bác sĩ. Nếu tự truyền, cơ thể bị thừa và sẽ đào thải. Tốt nhất là ăn hoa quả tươi hàng ngày để bổ sung lượng vitamin cần cho cơ thể.

Dịch đạm:

Thành phần gồm nước và axit amin, dùng cho bệnh nhân suy kiệt, không ăn uống được. Dịch đạm gồm có nhiều loại như Alvesin, Aminoplasma, Anparen, Biseko… Đạm cung cấp protein cho những trường hợp bệnh suy dinh dưỡng, bệnh nhân bị giảm mức độ protein trong máu, phục hồi sau phẫu thuật, stress. Đạm được bác sĩ chỉ định khi lượng abumin máu và protein máu trong cơ thể bệnh nhân xuống thấp.

Khuyên: Nên bổ sung đạm từ các thực phẩm hàng ngày như thịt, cá, trứng, sữa…

Mỡ (lipid)

Loại này được dùng theo chỉ định, cung cấp các axit béo cho những bệnh nhân sau phẫu thuật, suy dinh dưỡng. Chỉ định truyền loại này rất khắt khe, chỉ áp dụng cho những bệnh nhân ăn uống không đủ chất hoặc cơ thể không hấp thu được lượng mỡ cần thiết, những bệnh nhân suy kiệt.

2. Nhóm cung cấp các chất điện giải, dùng trong trường hợp mất nước, mất máu (tiêu chảy, bỏng). Đó là các dung dịch Lactate Ringer, natri nlorua 0,9%, natri bicarbonate 1,4%…

Muối nước:

Dịch muối 0,9% hay dịch mặn, gồm nước và muối ăn, dùng để bù dịch cho cơ thể khi mất nước. Độ mặn của dịch bằng độ mặn của máu.Hầu như sử dụng trong mọi loại chỉ định đối với tình trạng mất nước của cơ thể như tiêu chảy, bỏng, nôn. Các loại sốt virus kéo dài với biểu hiện lâm sàng điển hình như môi khô, mặt hốc hác. Tuy nhiên, cũng là dấu hiệu sốt nhưng là sốt do nhiễm trùng thì việc tiêm truyền lại không giải quyết được vấn đề.

3. Nhóm đặc biệt như huyết tương tươi, dung dịch chứa albumin, dextran… dùng trong các trường hợp cần bù nhanh chất đạm hoặc lượng dịch tuần hoàn trong cơ thể.

Biến chứng của truyền dịch

Việc dùng dịch truyền bừa bãi có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ:

- Sốc phản vệ do truyền nhanh, áp lực thẩm thấu cao gây biến chứng với biểu hiện vã mồ hôi, chân tay lạnh, mạch nhanh, huyết áp tụt.

- Nhiễm trùng máu.

- Rối loạn điện giải: Khi đưa vào một lượng không cần thiết dẫn đến sự dư thừa khiến người bệnh mệt ỏi, nôn nao, tăng nhịp tim bất thường.

- Thiếu hụt các yếu tố vi lượng: Nếu truyền dịch kéo dài dẫn đến dung mao của ruột thoái hoá khiến thức ăn được hấp thụ kém.

- Phù toàn thân, tràn dịch mảng bụng, phù phổi, suy hô hấp, suy tim (nhất là đối với người vốn có bệnh tim mạch), thậm chí gây tử vong.

- Sưng chỗ kim tiêm hoặc lan toả ra xung quanh khiến vùng da đó bị viêm tấy đỏ, nặng hơn là bị hoại tử nhất là khi truyền dịch cung cấp chất dinh dưỡng.

- Truyền dịch có thể dẫn đến lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng như viêm gan siêu vi. Thậm chí, nếu lượng dịch truyền quá nhiều, cơ thể trẻ lại bị mất nước ưu trương, teo tế bào não rất nguy hiểm.

Ngay cả khi truyền dịch đúng chỉ định, bệnh nhân vẫn có thể gặp một số nguy hiểm trong quá trình truyền: chỗ tiêm bị phù, đau sưng, viêm tĩnh mạch, rét run, mặt tái nhợt, vã mồ hôi, khó thở, đau ngực…

Ai nên cẩn thận khi truyền dịch?

- Thận trọng đối với bệnh nhân lớn tuổi, có độ lọc thận yếu, bệnh nhân tim mạch hay có bệnh lý về não khi truyền dịch chứa chất điện giải.

- Đối với trẻ bị sốt không được truyền muối, đường vì những chất này đi vào cơ thể sẽ làm tăng áp lực lên sọ, tăng phù não.

- Bệnh nhi viêm phổi không nên truyền dịch vì dịch truyền làm tăng gánh nặng cho phổi, tim.

- Số do nhiễm trùng không nên truyền dịch vì không có tác dụng mà dễ gây các nguy cơ biến chứng khác.

- Đối với bệnh nhi viêm não, viêm màng não, cơ chế chọn dịch truyền phải theo địa chỉ của bác sĩ.

Khi nào truyền loại nào?

- Khi bệnh tiêu chảy: Dùng loại dịch truyền cung cấp các chất điện giải. Khi được truyền vào tĩnh mạch, các dung dịch muối khoáng có tác dụng bù nhanh chóng lượng nước đã mất khi bệnh nhân bị đi lỏng hoặc nôn mửa, đồng thời cung cấp các chất muối khoáng dưới dạng các ion như natri, kali, canxi, clo.

Lưu ý: Truyền dung dịch natri clorua 0,9% cho người tiêu chảy cần tuân thủ những yêu cầu nhất định: Không nên để nhỏ giọt quá nhanh bởi có thể gây biến chứng ứ nước ngoài tế bào, gây ra phù phổi cấp; đồng thời có thể gây ra hiện tượng axit máu do truyền một lượng ion clo quá mức.

- Người bị bỏng nặng hoặc mất máu nhiều: ”Dùng các loại dịch truyền ưu trương – chủ yếu để bù đắp một lượng ionclo. Cách và liều lượng sử dụng do bác sĩ quyết định tùy theo tình trạng bệnh tật cụ thể của từng người.