Xin hỏi vài điều về bệnh viêm gan siêu vi B?

Em bị nhiễm virus viêm gan siêu vi B. Em muốn hỏi bệnh này có chữa khỏi không?. Và phải chữa như thế nào và ở đâu?.
Trả lời 15 năm trước
Viêm gan siêu vi B đang là mối quan tâm của cộng đồng. Bệnh nguy hiểm vì nó diễn biến thầm lặng (80% người nhiễm siêu vi B không có triệu chứng), mức độ lây lan rất cao (gấp 100 lần siêu vi gây bệnh AIDS) hậu quả lâu dài và nặng nề, có thể gây viêm gan mãn, xơ gan và ung thư gan. Trên 90% số người mắc viêm gan siêu vi B tự khỏi sau vài tuần đến vài tháng (không quá 6 tháng). Khi bệnh khỏi cơ thể đã có kháng thể để không bị tái nhiễm khi gặp lại siêu vi B. Có dưới 10% sau khi bị nhiễm siêu vi B đã không thải loại được siêu vi B ra khỏi cơ thể và trở thành người mang siêu vi B mạn tính. Người mang siêu vi B mạn tính có 2 nguy cơ là truyền bệnh cho người khác và bản thân có nguy cơ diễn biến sang viêm gan mạn tính. Trong số bệnh nhân viêm gan mạn tính có 1-12% chuyển sang xơ gan còn đa số vẫn sống khỏe, không có biểu hiện gì. Rất ít bệnh nhân bộc phát viêm gan tối cấp dẫn tới hôn mê do suy gan cấp và tử vong. Cho đến nay chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị viêm gan siêu vi B cấp và cũng không có loại thuốc nào ngăn chặn được quá trình tiến triển của bệnh. Việc điều trị viêm gan cấp chủ yếu là chế độ dinh dưỡng nghỉ ngơi, theo dõi, phòng ngừa biến chứng. Là người khỏe mạnh mang siêu vi không cần điều trị thuốc. Chỉ trong trường hợp viêm gan mạn tính mới dùng thuốc đặc hiệu chống sự nhân đôi của siêu vi, không cần thiết phải uống thuốc bổ gan, vitamin nếu cơ thể vẫn bình thường. Không nên gây mệt thêm cho gan khi gan đang bị bệnh, càng sử dụng ít thuốc càng tốt. Thuốc đặc hiệu chống sự nhân đôi của siêu vi Interferon: Là một protein tự nhiên được sản xuất ra trong cơ thể để kích thích và thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống miễn dịch chống lại sự tấn công của siêu vi. Interferon - alpha là một chất tổng hợp nhân tạo có tính chất như interferon tự nhiên dùng để điều trị viêm gan mãn siêu vi B hiện nay. Lamivudin là một trong những thuốc đó (biệt dược là zeffix) nguyên là thuốc điều trị HIV, tình cờ người ta phát hiện lamivudin cũng có tác dụng trên siêu vi B. Lamivudin là một chất tổng hợp có thể can thiệp, ức chế sự sinh sản nhân đôi của siêu vi, làm giảm nồng độ HBV-DNA. Ngoài ra, hiện nay ở Việt Nam đã sản xuất một số thuốc điều trị viêm gan B, hiệu quả và giá thành rẻ: + Thuốc nam Siro Hebevera với thành phần chủ yếu là cây chó đẻ răng cưa, cà gai leo đã góp phần chữa khỏi được 27 - 59% người bị nhiễm HBV. + LIV-94 là loại thuốc bổ gan tiêu độc hoàn toàn từ dược liệu Việt Nam đã được thử nghiệm thành công và bắt đầu được áp dụng rộng rãi trong việc điều trị viêm gan. Đối với tình trạng kháng thuốc có thể sử dụng adefovir và loại mới nhất được áp dụng là baraclude (entecavir). Khi nào thì ngưng thuốc? Xét nghiệm HBeAg (6 tháng 1 lần) và men gan ALT (3 tháng 1 lần). Nếu HBeAg (+) men ALT bình thường, tiếp tục điều trị. Nếu HBeAg (-) men ALT bình thường, xem xét khả năng ngưng thuốc. Nhưng trước khi quyết định ngừng thuốc cần xét nghiệm anti-HBe và HBV-ADN. Nếu anti HBe dương tính tồn tại kéo dài và HBV-ADN âm tính thì có thể ngừng thuốc. Sau đó 6 tháng đến 1 năm xét nghiệm, kiểm tra lại để sớm phát hiện bệnh tái phát. Bạn có thể liên hệ đến Viện Y học lâm sàng các bệnh Nhiệt đới Bạch Mai, Hà Nội hoặc bệnh viện các bệnh nhiệt đới Tp. HCM
nguyen phi hung
nguyen phi hung
Trả lời 15 năm trước
VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH Giới thiệu Có khoảng 400 triệu người trên thế giới mang vi rút viêm gan B mạn tính. Việt nam là một trong những vùng có tỉ lệ lưu hành cao của tình trạng này. Hậu quả lâu dài của tình trạng nhiễm vi rút B mạn tính này là diễn tiến đến các bệnh gan giai đoạn cuối đe dọa tới tính mạng bệnh nhân như Xơ gan, Ung thư gan… Diễn tiến tự nhiên của nhiễm vi rút B Diễn tiến tự nhiên của nhiễm vi rút viêm gan B có thể chia 4 giai đoạn : 1-Giai đoạn dung nạp miễn dịch: Giai đoạn này có HBeAg (+), lượng vi rút trong máu cao ( > 20000 IU/mL [ khoảng 10[sup]5[/sup] copies/mL ] ), men gan(ALT) bình thường, có nghĩa là men gan không tăng. Giai đoạn này thường hay gặp ở những người bị nhiễm lúc sinh hay tuổi nhỏ, còn ngược lại ít xảy ra ở những người bị nhiễm ở tuổi thanh niên hay trưởng thành. 2-Giai đoạn thanh thải miễn dịch: Giai đoạn này rất thay đổi , lượng vi rút trong máu vẫn cao , men gan(ALT) tăng kéo dài, hoặc lúc tăng lúc giảm, và có hình ảnh viêm mạn tính khi sinh thiết gan. Mất HBeAg và anti-HBe(+) (chuyển đổi huyết thanh HBeAg) xuất hiện tự nhiên trong 50%-70% trường hợp bệnh nhân sau 5-10 năm, kết quả là chuyển qua tình trạng mang HBsAg không hoạt động. 3-Giai đoạn mang HBsAg: Giai đoạn này đặc trưng bởi lượng vi rút < 2000 IU/mL (khoảng 10[sup]4[/sup] copies/mL) hoặc không phát hiện được, men gan(ALT) bình thường. 4-Giai đoạn tái hoạt động: Tuy nhiên ở một số bệnh nhân dưới áp lực của miễn dịch trong giai đoạn chuyển đổi huyết thanh HBeAg hoặc trong giai đoạn mang HBsAg không hoạt động phát triển đột biến của vi rút ( precore hoặc core promoter ) không sản xuất được HBeAg nhưng vi rút vẫn nhân đôi nên số lượng tăng cao và gây nên tổn thương gan ở các mức độ khác nhau. Giai đoạn này gọi là viêm gan vi rút B mạn tính có HBeAg(-) và đặc trưng bởi sự dao động của số lượng vi rút trong máu, điển hình từ 2000-20.000.000 IU/mL (10[sup]4[/sup]-10[sup]8[/sup] copies/mL), men gan (ALT) tăng kéo dài hoặc tăng dao động, và tổn thương gan tiến triển khi sinh thiết gan. [blue]Đánh giá bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B:[/blue] Đánh giá ban đầu bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B bao gồm : Công thức máu, TQ, chức năng gan, lượng vi rút (HBV-DNA), HBeAg , anti-HBe, huyết thanh kháng viêm gan vi rút A, C, D, kháng thể kháng HIV với những người có yếu tố nguy cơ, AFP, siêu âm bụng, nếu cần có thể sinh thiết gan để đánh giá quyết định điều trị. Sinh thiết gan có ích trong những bệnh nhân >35 tuổi với men gan bình thường, khoảng 20%-30% những người này có xơ hóa gan mức độ 2. Nồng độ vi rút có thể phát hiện ở mức < 10 UI/mL (50 copies/mL) bằng phương pháp phân tử, nên đượ thực hiện để đánh giá trước điều trị, theo dõi đáp ứng với điều trị, và theo dõi sự phát triển kháng thuốc trong quá trình điều trị. Đánh giá ban đầu cũng nên bao gồm HBV genotype, có giá trị để xác định diễn tiến tự nhiên so sánh giữa genotype B và genotype C thì genotype B có bệnh hoạt động ít hơn, chuyển đổi huyết thanh sớm hơn và tần suất vào ưng thư gan ít hơn. Ở những bệnh nhân da trắng genotype A đáp ứng tốt hơn với interferon hoặc Peginterferon so sánh với những người nhiễm genotype D. Những bệnh nhân Châu Á nhiễm HBV genotype B có thể đáp ứng tốt hơn những người nhiễm genotype C. ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN VI RÚT B MẠN TÍNH Tiêu chuẩn điều trị: Chẩn đoán VGSVB mạn khi có số lượng virut (HBV – DNA ) trong huyết thanh cao, men gan tăng (ALT) và viêm hoại tử khi sinh thiết gan. Theo đề nghị của các nhà lâm sàng Hoa Kì gần đây người ta xác định mức độ men gan bình thường để xem xét điều trị là trên 30 IU/ L ở nam và 19 IU /L ở nữ. Còn theo hướng dẫn của Hiệp Hội Gan Mật Hoa Kì ( AASLD ) gợi ý rằng men gan ( ALT ) nên tăng gấp đôi trước khi bắt đầu điều trị ngoại trừ sinh thiết gan chỉ ra rằng có diễn tiến bệnh. Điều trị hiện nay chỉ được giới thiệu cho những bệnh nhân ở giai đoạn thanh thải miễn dịch và tái hoạt động (HBV–DNA) trên ngưỡng xác định cùng với men gan tăng trên giới hạn trên bình thường, và/ hoặc viêm hoại tử khi sinh thiết gan. Mục tiêu điều trị Mục tiêu đầu tiên của điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính là ức chế kéo dài số lượng siêu vi (HBV – DNA ) điều này sẽ dẫn đến làm giảm diễn tiến tới xơ gan, suy gan và ung thư gan đã được chứng minh bởi nghiên cứu đoàn hệ lớn ở Đài Loan. Nghiên cứu này cho thấy rằng lượng vi rut ≥ 10[sup]4[/sup] copeis/ mL (khoảng 2000 IU/ mL) thì liên quan đến sự phát triển xơ gan và ung thư gan nhiều hơn ở thập kỷ sau trong những bệnh nhân không điều trị ( JO lloeje – gastro – 2006 – 03 ). Một nghiên cứu ở năm 2004 cho thấy rằng trong những bệnh nhân xơ hóa gan tiến triển, điều trị lamivudine kéo dài làm giảm bệnh gan mất bù và tần xuất ung thư gan so với giả dược. Điều này chỉ ra rằng ức chế vi rút lâu dài bằng kháng vi rút có thể làm diễn tiến bệnh chậm lại. Những dấu hiệu xác định hiệu quả của điều trị bao gồm ức chế số lượng của vi rút thấp nhất và có thể không phát hiện, bình thường hóa men gan, cải thiện mô học, chuyển đổi huyết thanh HBeAg ở những bệnh nhân có HBeAg (+), và hiếm hơn có sự chuyển đổi huyết thanh HBsAg. Phác đồ điều trị Phác đồ điều trị này dựa vào những bằng chứng nghiên cứu, kinh nghiệm lâm sàng và những ý kiến đồng thuận của các chuyên gia và dựa trên những đề nghị hướng dẫn của Hội Gan Mật Hoa Kì ( AASLD), Hội Gan Mật Châu Âu ( EASL) và Hội Gan Mật Châu Á Thái Bình Dương (APASL) Những thuốc điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính hiện nay được chấp nhận bởi cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kì (FDA) : Interferon alfa-2b ( 1991), Lamivudine (1998) Adefovir (2002) Entecavir ( 2005), Peginterferon alfa-2a ( 2005) và Telbivudine ( 2006). Hiện nay điều trị đơn trị liệu ban đầu được hướng dẫn bởi Hội Gan Mật Hoa Kì và các nhà lâm sàng Hoa Kì là các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích(tiêm)Peginterferon alfa-2a. Interferon alfa - 2b chuẩn hầu như dần được thay thế bởi Peginterferon alfa-2a và Lamivudine thì không được đề nghị như là lựa chọn đầu tay trong cộng đồng vì có tỷ lệ kháng thuốc cao, Telbivudine cũng vậy. Điều trị ban đầu: Mục đích đầu tiên của điều trị kháng vi rút là ức chế vi rút lâu dài và ổn định đến mức thấp nhất có thể. Theo phác đồ điều trị của các nhà lâm sàng Hoa Kì mới cập nhật đối với bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính có HBeAg (+) thì ngưỡng của HBV DNA để điều trị là ≥ 20,000 IU/mL cùng với tăng men gan (ALT) trên giới hạn trên bình thường (30 IU/L ở nam và 19 IU/L ở nữ) và /hoặc có viêm hoại tử trên sinh thiết gan (Bảng 1 ). [blue]Bảng 1:Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính HBeAg (+) [US] [/blue] HBV – DNA < 20,000 IU/mL và men gan ALT bình thườngKhông điều trị nhưng theo dõi mỗi 6 đến 12 tháng Xem xét điều trị ở những bệnh nhân có viêm hoại tử trên mô học ngay cả số lượng virus thấp. •HBV – DNA > 20,000 IU/ mL và men gan ALT bình thường Tỷ lệ HBeAg chuyển đổi huyết thanh thấp ở tất cả các bệnh nhân điều trị Những bệnh nhân trẻ hơn thì thường ở giai đoạn dung nạp miễn dịch. Xem xét sinh thiết gan đặc biệt ở những bệnh nhân lớn hơn 35 tuổi và điều trị nếu có viêm hoại tử. nếu không sinh thiết được theo dõi sự tăng lên của men gan. Nếu điều trị, các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích (tiêm)Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Telbivudine có thể sử dụng ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị •HBV – DNA ≥20,000 IU/mL và men gan ALT tăng Các thuốc uống Adefovi, Entecavir và thuốc chích(tiêm) Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Telbivudine có thể sử dung ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị Nếu bệnh nhân có số lượng vi rut cao thì các thuốc uống Adefovir, Entecavir hoặc Telbivudine thì được đề nghị hơn là thuốc chích(tiêm)Peginterferon alfa-2a. •Thời gian điều trị tùy theo từng cá thể, tiếp tục 6 đến 12 tháng sau khi có chuyển đổi huyết thanh HBeAg (+) thành anti HBe (-) và HBV – DNA âm tính. [blue]Bảng 2 :Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn HBeAg(+) của Hội Gan Mật Hoa Kì 2007 (AASLD)[/blue] •Những người điều trị Bệnh nhân có HBV - DNA > 20,000 IU/ml và ALT > hai lần giới hạn trên bình thường Xem xét sinh thiết gan nếu bệnh nhân lớn hơn 40 tuổi có men gan ALT lớn hơn từ một đến hai lần giới hạn trên bình thường (ALT ≥ 1-2 lần) và trong gia đình có người bị ung thư gan. Điều trị nếu không có chuyển đổi huyết thanh HBeAg. •Thuốc được lựa chọn : Các thuốc uống adefovir, entecavir và thuốc chích Peginterferon alfa-2a •Thời gian điều trị: tiếp tục 6 tháng sau khi có chuyển đổi huyết thanh HBeAg thành anti HBe. Phác đồ điều trị của các nhà lâm sàng Hoa kì ở bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn có HBeAg (+) có thể so sánh với hướng dẫn của AASLD 2007 (Bảng 2). Sự khác nhau đầu tiên của hai hướng dẫn này là mức độ men gan để xác định đưa vào điều trị, hướng dẫn để sinh thiết khi cần thiết và khác biệt nhỏ nữa là xác định thời gian điều trị. Cả hai hướng dẫn đều chọn adefovir, entecavir và Peginterferon alfa-2a là là những thuốc lựa chọn đầu tay để điều trị bệnh nhân viêm gan B mạn tính HBeAg (+). Peginterferon alfa-2a, adefovir và entecavir được lựa chọn nhiều hơn lamivudin vì chúng cho thấy rằng khả năng ức chế mạnh hơn lamivudin trong những thử nghiệm ngẫu nhiên, và lamivudin thì bị hạn chế bởi tỷ lệ kháng thuốc ( JO – Lau – NEJM – 2005 – 06 ). Một cập nhật của phác đồ của các nhà lâm sàng Hoa Kì cũng bao gồm telbuvudine như một một khả năng điều trị đầu tay bởi vì tỷ lệ đáp ứng vi rút mạnh hơn và tỷ lệ kháng thuốc thấp hơn so với lamivudin. Tuy nhiên telbivudin có tỷ lệ kháng thuốc cao điều mà có thể giảm đến mức tối thiểu nếu HBV - DNA (-) sau 24 tuần điều trị. Vì thế bệnh nhân cần được theo dõikhi điều trị với telbivudin để xác định sự ức chế vi rút nhanh và mạnh. Khi đáp ứng không tốt, nếu phát hiện HBV - DNA sau 24 tuần điều trị thì nên đổi thuốc hoặc thêm vào một thuốc thứ 2 để tránh kháng thuốc Những bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn HBeAg (-), với lượng vi rút ≥ 2000 IU/ ml thì được đề nghị trong phác đồ của các nhà lâm sàng Hoa Kì ( Bảng 3), trong khi lượng vi rút > 20,000 IU/ ml thì được đề nghị trong hướng dẫn của Hội Gan Mật Hoa Kì ( Bảng 4) vì những lý do như thế Các thuốc uống adefovir, entecavir, thuốc chích Peginterferon alfa-2a thì được lựa chọn đầu tay. Trong thực hành Peginterferon alfa-2a đã thay thế dần interferon chuẩn, lamivudine không được lựa chọn vì khả năng kháng thuốc cao; telbivudine có thể là lựa chọn nếu lượng vi rút không phát hiện trong huyết thanh sau 24 tuần điều trị. [blue]Bảng 3: Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính HBeAg (-) [US][/blue] HBV - DNA < 2000 IU/mL và men gan(ALT) bình thường. - -Không điều trị hầu hết là mang HBsAg (+), theo dõi mỗi 6-12 tháng - Xem xét điều trị ở những bệnh nhân có viêm hoại tử trên mô học ngay cả số lượng virus thấp. HBV – DNA ≥ 2000 UI/mL và men gan (ALT) bình thường - -Xem xét sinh thiết gan và điều trị nếu có viêm hoại tử. Nếu không sinh thiết được theo dõi sự tăng lên của men gan. - Nếu điều trị thì các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Terbivudin có thể sử dụng ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị HBV – DNA ≥ 2000 IU/mL và men gan (ALT) tăng - Nếu điều trị thì các thuốc uống Adefovir, Entecavir và thuốc chích Peginterferon alfa-2a thì được đề nghị. Thuốc uống Terbivudin có thể sử dụng ở những bệnh nhân không phát hiện được HBV – DNA ở tuần 24 của điều trị - Thời gian điều trị thì lâu dài. Không biết trước được khi nào thì dừng. Thời gian điều trị : Một năm cho điều trị Peginterfron, ngược lại nếu dùng thuốc uống thì lâu dài. [blue]Bảng 4: Tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân viêm gan mạn tính có HBeAg (-) của hội gan mật Hoa Kì (AASLD)[/blue] Bệnh nhân phải điều trị: -Bệnh nhân có HBV DNA > 20.000 IU/mL và ALT > 2 lần giới hạn trên bình thường (30 ở nam, 19 ở nữ) -Sinh thiết gan và điều trị nếu cần thiết đối với những bệnh nhân có HBV DNA ≥ 2000 IU/mL và men gan ALT 1-2 lần giới hạn trên bình thường. Thuốc được lựa chọn: Adefovir, Entecavir, hoặc Peginterferon Thời gian điều trị: + Điều trị với Peginterferon thì sử dụng 1 năm. + Điều trị lâu dài với các thuốc uống. BS Hung [:-c][blue]0973332733 [/blue] goi tu van mien phi. [blue]http://phihungmd.blogspot.com[/blue] [b]NHỮNG THUỐC ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH[/b] •Interferon alfa-2b •Lamivudine •Adefovir •Entecavir •Peginterferon alfa-2a •Telbivudine [b][red]ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN CÓ THỂ KHÔNG THẢI LOẠI HẾT ĐƯỢC SIÊU VI B RA KHỎI NGƯỜI NÊN MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ LÀ[/red]:[/b] [blue]Ức chế số lượng vi rút (HBV DNA) tới mức thấp nhất có thể để:[/blue] –[red]Ngăn ngừa bệnh gan diễn tiến đến xơ gan.[/red] –[red]Ngăn ngừa suy gan và ung thư tế bào gan (HCC).[/red] –Ngăn ngừa bệnh gan liên quan đến ghép gan hoặc chết. [blue]•Ức chế vi rút (HBV DNA) đưa đến:[/blue] –Cải thiện mô học. –Bình thường hóa men gan ALT. –Mất HBeAg và chuyển huyết thanh. –Mất HBsAg và chuyển huyết thanh. [blue]ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CÓ HBeAg (+)[/blue] Hướng dẫn của AASLD 2007(Hiệp hội gan mật Hoa kỳ) •Những bệnh nhân nào phải điều trị? [blue]–HBV DNA > 20,000 IU/mL và ALT > 2 x ULN*[/blue] •Bắt đầu điều trị sau 3-6 tháng theo dõi nếu không có chuyển đổi huyết thanh HBeAg tự nhiên. –Sinh thết gan nếu bệnh nhân > 40 tuổi, ALT 1-2 x ULN,hoặc trong gia đình có người bị HCC •Điều trị nếu có viêm trung bình hoặc nặng, có xơ hóa THUỐC ĐỀ NGHỊ: –[green]Adefovir, entecavir, hoặc peginterferon alfa-2a[/green] (*ULN)( giới hạn trên bình thường) = 30 IU/mL cho nam, 19 IU/mL cho nữ.) [blue]ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MẠN CÓ HBeAg (-)[/blue] Hướng dẫn của AASLD 2007(Hiệp hội gan mật Hoa kỳ) •Những bệnh nhân nào phải điều trị? [blue]–HBV DNA > 20,000 IU/mL và ALT > 2 x ULN* –HBV DNA ≥ 2000 IU/mL và ALT 1-2 x ULN: biopsy và điều trị nếu cần thiết.[/blue] •Các thuốc đề nghị chọn: [green]–Adefovir, entecavir, hoặc peginterferon alfa-2a[/green] [u][i]•Thời gian điều trị:[/i][/u] –Peginterferon cho 1 năm –Lâu dài cho các thuốc uống. [blue]ĐIỀU TRỊ CHO NHỮNG BỆNH NHÂN XƠ GAN SAU VGSV B MẠN[/blue] [red]Xơ gan còn bù[/red] •Những bệnh nhân nào cần điều trị? –HBeAg (+) hoặc (-) –HBV DNA > 2000 IU/mL; không quan tân đến men gan ALT. –HBV DNA < 2000 IU/mL; điều trị nếu ALT tăng. –HBV DNA (-); theo dõi. •Các thuốc lựa chọn –Adefovir or entecavir [red][i]Xơ gan mất bù[/i][/red] Những bệnh nhân nào cần điều trị? HBeAg (+) hoặc (-) Nồng độ HBV DNA bất kỳ . Các thuốc lựa chọn Lamivudine hoặc telbivudine+Adefovir, hoặc entecavir đơn trị liệu. [blue][i]THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH[/i][/blue] [red]•HBeAg (+)[/red] –6-12 tháng sau khi có chuyển huyết thanh HBeAg để hạn chế thấp nhất tỉ lệ tái phát. [red]•HBeAg (-)[/red] –Tái phát thường xảy ra sau khi ngưng điều trị. –Cho đến nay điều trị lâu dài thì được đề nghị. [red]•Xơ gan[/red] –Điều trị lâu dài –Kết hợp điều trị thì thường được sử dụng [size_5][blue][size_4]ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B VÀ SỰ KHÁNG THUỐC[/size_4][/blue][/size_5] Nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính là một vấn đề y tế lớn tòan cầu, ảnh hưởng đến hơn 400 triệu người trên thế giới, riêng ở vùng Châu Á-Thái Bình Dương chiếm tới 75% người bị nhiễm vi rút viêm gan B mạn tính trên tòan thế giới, Việt nam nằm trong những vùng có tỉ lệ lưu hành cao > 8%. Viêm gan vi rút B mạn tính gây nên nhiều biến chứng trầm trọng, gồm suy gan, xơ gan và ung thư tế bào gan. Ngay 27/4/2007 Công ty dược phẩm Roche phối hợp với Hội Gan Mật Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức một buổi trao đổi kinh nghiệm lâm sàng về điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính và sự kháng thuốc tại thành phố Đà lạt. Tại buổi trao đổi kinh nghiệm các chuyên gia về gan học đã dề cập đến vấn đề khó khăn trong điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính đối với các thuốc nucleoside analogues là phải dùng kéo dài vô thời hạn nên thường đi kèm với nguy cơ kháng thuốc và tính an tòan chưa xác định hết. Sự đề kháng với thuốc kháng vi rút phụ thuộc ít nhất vào 4 yếu tố: 1. Tần số xuất hiện đột biến, số lượng đột biến, và tốc độ nhân đôi của vi rút. 2. Chọn lọc tự nhiên dưới áp lực của thuốc sử dụng. 3. Sự nhân lên của đột biến. 4. Khả năng của sự nhân đôi. Hiện nay các thuốc như lamivudine, adefovir, entecavir, interferon alpha, và peginterferon alpha 2a được chấp nhận điều trị cho những bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính. Sự lựa chọn điều trị cho bệnh nhân thì có thể khởi đầu với bất kỳ lọai nào trong những lọai thuốc đã nêu.Sử dụng nucleoside analogues thì đơn giản , ít tác dụng phụ, chi phí cho từng tháng thì ít hơn, nhưng sử dụng kéo dài thì nguy cơ kháng thuốc càng cao, lúc này phải thêm một thuốc mới, ít kháng chéo, thời gian sử dụng thuốc không được biết khi nào thì kết thúc, điều này tùy thuôc vào từng cá thể bệnh nhân.Sử dụng các chất diều hòa miễn dịch thì thới gian điều trị có hạn, ít xảy ra trường hợp kháng thuốc, nhưng phải chích, nhiều tác dụng phụ và chi phí nhiều trong một thời gian ngắn. Cho nên lựa chọn điều trị cho bệnh nhân viêm gan siêu vi B mạn tính phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Bác sĩ chỉ là người cung cấp thông tin và gợi ý sự lựa chọn tốt nhất cho từng cá thể bệnh nhân, còn quyết định sử dụng thuốc nào thì do bệnh nhân tự quyết định. Vấn đề kháng thuốc vẫn là vấn đề nan giải trong điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi b mạn tính. Đột biến kháng thuốc là một hiện tượng đương nhiên, chúng ta chỉ cố gắng làm sao để nó xảy ra ít và xảy ra muộn mà thôi.Và nên chăng cần có sự phối hợp các chất điều hòa miễn dịch và các chất nucleoside analogues trong điều trị bệnh Viêm gan siêu vi B mạn tính để đạt được tỉ lệ thành công cao hơn và giảm tỉ lệ đột biến kháng thuốc, điều này cần có nhiều nghiên cứu so sánh trực tiếp hơn nữa trong tương lai để có bằng chứng rõ ràng về vấn đề phối hợp thuốc này. TpHCM ngay 01/05/2007 BS Hùng , ĐT: [red]0973332733[/red], Tư vấn miễn phí
Nguyễn thị hồng vân
Nguyễn thị hồng vân
Trả lời 15 năm trước
4.1. Chế độ ăn Nếu Bạn là người lành mang mầm bệnh, Bạn nên hạn chế uống rượu. Người nghiện rượu mắc bệnh viêm gan B thường hay bị xơ gan hơn. Chế độ ăn bình thường là thích hợp với hầu hết trường hợp viêm gan siêu vi B. Khi có xơ gan, Bác Sỹ khuyên Bạn nên giảm muối trong chế độ ăn. 4.2. Lối sống Người bị nhiễm SVVG B thường lo lắng về nguy cơ truyền bệnh sang những người xung quanh. Mối lo này hoàn toàn hợp lý bởi vì siêu vi B lây nhiễm qua tiếp xúc với máu hoặc dịch tiết của bệnh nhân, cũng như do quan hệ tình dục. Hiện nay, đã có vắc-xin chủng ngừa cho những người tiếp xúc với người mang mầm bệnh (bạn tình, trẻ em, cha mẹ, người chăm sóc.). Dù sao, người mang mầm bệnh cần có biện pháp đề phòng thích hợp, ví dụ nếu Bạn bị đứt tay, hãy lau sạch máu bằng thuốc sát trùng. Nên sử dụng biện pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục. 4.3. Ðiều trị Tùy theo quyết định của Bác Sỹ, một số trường hợp cần điều trị sớm và tích cực. Mục đích điều trị nhằm: (a) Loại trừ hoặc giảm thiểu tình trạng viêm gan, do đó ngăn ngừa, làm chậm tiến triển sang giai đoạn xơ gan, ung thư gan. (b) Ðào thải toàn bộ, hoặc một phần lượng siêu vi B trong cơ thể, đặc biệt ở trong gan. 5. ÐIỀU TRỊ ÐẶC HIỆU: Thuốc điều trị chủ yếu là Interferon alpha Interferon alpha là một chất tự nhiên có trong cơ thể người, được sản xuất bởi một số tế bào khi cơ thể nhiễm virut. Chức năng của Interferon alpha là diệt trừ tác nhân gây bệnh. Như vậy, khi dùng Interferon, siêu vi B sẽ bị loại bỏ giống như cơ chế đào thải tự nhiên của cơ thể. Interferon alpha (RoferonỊ-A) được đóng sẵn trong bơm tiêm có kèm kim nhỏ, tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Khi bắt đầu điều trị, hầu hết bệnh nhân đều có cảm giác sốt nhẹ, mệt mỏi trong vài giơ,?ọi là hội chứng giả cúm. Những biểu hiện này là do Interferon khởi động đáp ứng của cơ thể chống lại siêu vi giống như khi Bạn mắc bệnh cúm vậy. Về sau, tác dụng phụ này sẽ bớt dần. Uống Paracetamol nửa tiếng trước khi tiêm thuốc sẽ hạn chế biểu hiện đó. Nên tiêm thuốc vào buổi tối để hôm sau Bạn có thể làm việc bình thường. Trong thời gian điều trị, Bạn nên làm xét nghiệm máu để đánh giá đáp ứng. Sau khi kết thúc điều trị, cần tiếp tục theo dõi thêm 6 tháng nữa, bởi vì một số bệnh nhân có thể bị tái phát sau khi ngưng thuốc. Một số thuốc kháng sinh chống siêu vi hiện đang được nghiên cứu phối hợp với Interferon alpha.
Ngo cong Khanh
Ngo cong Khanh
Trả lời 15 năm trước
Bệnh viêm gan siêu B hoàn toan chưa khỏi. Em nên đến các bênh viện tuyến Tỉnh để khám và điều trị.
nguyen phi hung
nguyen phi hung
Trả lời 15 năm trước
[quote]Từ bài viết của [b]khanhcngo[/b] Bệnh viêm gan siêu B có thể chữa khỏi ở một số người. Em nên đến các bênh viện tuyến Tỉnh để khám và điều trị.[/quote]
Nguyen ngoc thanh
Nguyen ngoc thanh
Trả lời 15 năm trước
Bây giờ theo như mình được biết thì có 02 cách chữa: + Cách chính thống( được bộ y tế cho phép): Các bệnh viện lớn như Bạch mai chẳng hạn. + Cách không chính thống: dùng thuốc nam: bà cô mình đã chữa và đi khám lại thì xét nhiệm kết quả không còn dấu hiệu của viruts (âm tính) Bạn cần địa chỉ thì liên hệ sau,
nguyen phi hung
nguyen phi hung
Trả lời 15 năm trước
[quote]Từ bài viết của [b]vietthuethanhnam[/b] CHÀO BẠN! [blue]Bệnh của bạn không đaángngiạ[/blue] như mọi người nói đâu, nện bạn coóthể yên tâm. Song, bạn cũng cần phải chú ý: -[blue]Thuốc để chữa viêm gan siêu vi B là không có[/blue], (bạn không nên tự ý mua, muốn mua phải tham khảo ý kiến bác sỹ) -Thứ hai, bạn chỉ cần chú ý khi nào bạn cảm thấy cơ thể mệt mỏi, bạn đến ngay các bệnh viện xét nghiệm chức năng gan. Mục dích của việc xét nghiệm này nhằm: kiểm tra chức năng gan của bạn có ổn định không, nếu ổn định thì không có gì phải lo, nhưng nếu không ổn định bạn phải sử dụng thuốc theo dơn của bác sỹ và ăn uống theo huớng dẫn) Điều quan trọng bạn phải giữ cho chức năng gan luôn ổn định bằng cách ăn uông những thứ mát, ít mỡ tránh uống rượu, thuốc kháng sinh có tác dụng phụ,.... Bạn hãy tỉnh táo khi nghe những hướng dẫn không chuyên khoa tự đi mua thuốc đông y, thuốc của thầy lang hay các loại thuốc kháng theo quảng cáo,... CHÚC BẠN THÀNH CÔNG![/quote] KHI KHUYÊN MỘT ĐIỀU GI ĐÓ CHO NGƯỜI KHÁC, ĐỂ MANG LẠI ĐIỀU TỐT ĐẸP CHO HỌ,VỚI TẤM LÒNG CỦA MÌNH BẠN NÊN HIỂU RÕ VẤN ĐỀ MINH ĐANG TRÌNH BÀY MỘT CÁCH CẶN KẼ ĐỂ CÓ NHỮNG LỜI KHUYÊN CHÍNH XÁC, CHÚC BẠN VUI VÀ GIÚP ĐỠ MỌI NGƯỜI NHIỀU HƠN !
Phí Nhật Phàm
Phí Nhật Phàm
Trả lời 15 năm trước
[quote]Từ bài viết của [b]thanhngoc1412[/b] Bây giờ theo như mình được biết thì có 02 cách chữa: + Cách chính thống( được bộ y tế cho phép): Các bệnh viện lớn như Bạch mai chẳng hạn. + Cách không chính thống: dùng thuốc nam: bà cô mình đã chữa và đi khám lại thì xét nhiệm kết quả không còn dấu hiệu của viruts (âm tính) Bạn cần địa chỉ thì liên hệ sau,[/quote] Làm ơn cho mình xin địa chỉ mà cô bạn đã mua thuốc nam để dùng được không? Xin chân thành biết ơn ngàn lần (nick và email: italia_romance @yahoo.com)
nguyen quang phu
nguyen quang phu
Trả lời 15 năm trước
xin chào mình đã đọc tất cả cac' bài viết của các ban mình chỉ bổ xung thêm 1 vài ý nho nhỏ:viên gan b la 1 bệnh đến giờ vẫn chưa co' 1 loại thuốc nào co' thể điều trị khỏi hẳn cả.chỉ có những người giai đoạn đầu tưc' là viên ganb cấp thi co' khả năng khoảng 30% la hết virut va trở lai khỏe mạnh bình thường.khi bi viêm gan mạn thi đành chấp nhận sống chung với lũ thôi.dùng 1 số loại thuốc tây nhu các ban kể ở trên là ổn.lưu ý:ko lên wa lạm dụng vào thuốc wa' nhiều để tránh dẫn đến kháng thuốc,nên ăn uống ngủ nghỉ hơp lý .Mình chưa thấy 1 loại thuốc nao` co' thể làm cho con người co' thể khỏi dc cả.mình thấy có ban nói răng dung thuốc nam có thể khỏi dc nhưng ko phải thế đó mới chỉ là tam thời virut chưa tấn công cơ thể bạn thôi và nếu virut bùng phát thì hậu quả thật là kho' lường.mình đang tim hiểu về 1 loại san phẩm mới co' thể nâng cao thể trạng khi đang bệnh nếu mọi người có hứng thú tìm hiểu thì xin liên lạc với minh theo số đt:01683519565 rất vui khi được trao đổi thông tin với các bạn.
Nguyễn Phú Cường
Nguyễn Phú Cường
Trả lời 15 năm trước
1/hãy cho mình biết bạn bao nhiêu tuổi rồi? 2/nhà bạn có ai bị bệnh này không? 3/bạn có hay ăn ngoài tiệm không? 4/có hay uống rượi bia hay hút thuốc gì không? ->Nếu câu 4 trả lời là không thì xin chúc mừng bạn ,Bạn không cần lo lắng thái quá! Ở Việt Nam ,rất nhiều người mắc bệnh này ,đa phần là lây qua đường ăn uống,do ăn uống thiếu vệ sinh!(câu 3) Và theo tôi được biết thì 100 người mắc phải thì 90% bệnh sẽ tự khỏi(do sức đề kháng của cơ thể)còn 10% còn lại chuyển sang nặng hơn là do không kiên cử (câu 4). Xin lưu ý ,bạn đừng ăn các loại thức ăn có màu đỏ,đặc biệt là món trứng,tuyệt đối không ăn .THUỐC CHỈ LÀ PHỤ ,DO BẢN THÂN BẠN LÀ CHÍNH!