Phân tích người đàn bà hàng chài trong tác phẩm " Chiếc Thuyền ngoài xa " của Nguyễn Minh Châu

Giúp em làm bài văn này với phân tích người đàn bà hàng chài trong tác phẩm " Chiếc Thuyền ngoài xa " của Nguyễn Minh Châu
jkfshrjkg
jkfshrjkg
Trả lời 12 năm trước

I. Mở bài

Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989), là nhà văn lớn của văn xuôi Việt Nam hiện đại, là cây bút xuất sắc của nền văn học sử thi thời kháng chiến chống Mĩ, từ sau năm 1975, NMC lại là một trong số "những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất" của văn học Việt Nam thời kì đổi mới (Nguyễn Ngọc).

Sáng tác của NMC đã phản ánh khá trung thành quá trình vận động phát triển cuả văn xuôi VN đương đại trong một vài thập kỉ trước và sau thời kì 1975. Theo NCM, sau chiến tranh, các nhà văn VN đã chuyển từ "cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc" sang "chuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người". Từ những tác phẩm mang đậm chất sử thi và cảm hứng lãng mạn như: Mảnh trăng cuối rừng, Dấu chân người lính... ca ngợi những hiện tượng nhân vật đẹp đẽ, cao cả, thánh thiện như được bao bọc trong "một bầu không khí vô trùng" (I.Nikulin); sau 1975, NMC đã hướng sự quan tâm của mình tới con người trong cuộc sống đời tư - thế sự, thể hiện sự cảm thông và tình thương sâu sắc với số phận con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

"Chiếc thuyền ngoài xa" là truyện thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai của NMC, lúc đầu được in trong tập "Bến quê" sau được NCM lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1957). Trong tác phẩm, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

II. Thân bài

1. Sự thấy hiểu, xót thương và lo âu cho tình trạng sống tăm tối và số phận bất hạnh của con người.
Nỗi xót xa cho nhân vật đã thể hiện ngay trong những đường nét miêu tả đầu tiên về ngoại hình, dáng vẻ, cử chỉ, thái độ. Người đàn bà hàng chài "trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch...rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ". Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lé gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi của chị tất cả sinh lực và niềm vui. Trên "gương mặt mệt mỏi, tái ngắt ấy" dường như còn không mảy may chút sức sống. Sự nghèo khổ, nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong "tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng" vì khi rời khỏi thuyền "phải lội qua quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối".

Sự khốn khổ của chị còn hiện ra trong dáng vẻ "lúng túng, sợ sệt" ở toà án huyện, thậm chí khi Đẩu phải mời tới lần thứ hai chị "mới dám rón rén đến ngồi ghét vào mép chiếc ghết và cố thu người lại" - hình như đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là phi lí, luôn mặc cảm và muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức mà mình có thể gây ra cho mọi người.

Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa đến cho người đọc chính là thái độ cam chịu, nhẫn nhục của chị.

Khi đi qua bãi xe tăng hỏng, trước lúc đến bên chiếc xe rà phá mìn, chị "đứng lại ngước mắt nhìn ra ngoài mặt phá nước, chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng, rồi đưa một cánh tay lên có lẽ đang gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, sự quen thuộc ghê sợ, khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận năng" của người chồng vũ phu, thô bạo. Vì thế nên dù đã chấp nhận, chị không nén nổi cay đắng - cử chỉ của chị như muốn tìm đâu đó sự thay đổi hay trì hoãn dù chỉ một thoảng, nhưng rồi cũng chị cũng hiểu rằng đó là điều không thể, cánh tay chị "buông thõng" chán chường, cặp mắt nhìn xuóng chân cam chịu và mệt mỏi.

Khi bị chồng đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với "một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy". Đó là thái độ của một người đang thực hiện những nghĩa vụ cực khổ của mình - không cán thán, bất bình nhay tránh né.

Sau này, qua câu chuyện của chị với Đẩu, Phùng, người đọc càng xót xa hơn cho thân phận con người khốn khổ ấy khi hiểu nguyên nhân thái độ cam chịu, nhẫn nhục tới kì lạ của chị. Chị chấp nhận chịu đòn, tất nhiên không phải vì dạn đòn , càng không phải để trả giá cho những tội lỗi sai lầm của mình, cũng không phải vì quá dốt nát đến mức không còn chút ý thức về bất hạnh; về quyền sống như một con người - chị lặng lẽ chịu đựng những đau đớn vể cả thể xác và tinh thần chỉ vì "bất kể lúc nào lão thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu ... Giá mà lão uống rượu ... thì tôi còn đỡ khổ ...Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được lão .. đưa tôi lên bờ mà đánh..." Vậy là cùng một lúc, người đàn bà hàng chài không chỉ chịu đựng những vất vả, nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh mà còn phải gánh vác thêm những u uất, khổ sở của người chồng khi lão không còn đủ sức để chịu đựng một mình.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về thể xác với những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu àm còn giày vò nặng nề về tinh thần bởi sự nhục nhã khi bị đối xử như một con vật; bởi luôn nơm nớp lo sợ con cái bị tổn thương, bởi sự đau khổ khi luôn phải chứng kiến đứa con trai vì quá thương mẹ mà căm ghét đánh lại bố. Miêu tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc, vừa phải "chắp tay vái lấy vái để đứa con" để nó đừng phạm phải một tội ác trái với luân thường đạo lí, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự xót thương cho nỗi đau khổ cùng cực mà con người có thể chịu đựng.

Người đàn bà đã không trốn chạy khi bị chồng đánh đập dã man trên bờ biển . Chị càng không có ý định tự giải thoát mình khỏi người chồng tàn bạo ấy. Sự chịu đựng của chị không phải chỉ trong một, hai lần chịu đòn mà kéo dào trong suốt cả cuộc đời. Chị khẩn thiết van xin không phải li hô dù biết rằng những trận đòn cũng sẽ tiếp diễn với cuộc sống ấy, bên người chồng ấy. Hình ảnh người đàn bà "chắp tay vái lia lịa quí toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó" cho thấy sự cay đắng trong số phận con người - giữa các lựa chọn, chị chấp nhận chịu đựng những đầy ải , những đòn roi của chồng "vì nỗi vất vả của người đàn bà trên một con thuyền không có đàn ông" còn đáng sợ hơn cả đòn roi đầy ải; cuộc mưu sinh trên biển cả luôn tiềm ẩn những đe doạ thậm chí còn khủng khiếp hơn cả những đau đớn về thể xác, tinh thần do người chồng mang đến. Nếu "tiếng thở dài" đầy chua chát của Đẩu đã gợi ra rất cả những bất lực của thiện chí, những bế tắc của kiếp người.

Câu chuyện của người đàn bà hàng chài giúp người đọc hiểu ra nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống của gia đình chị chính là tình trạng đói nghèo, là đời sống bấp bênh kéo dào trên mặt biển gây ra tâm lí bế tắc, u uất. Trước năm 1975, mỗi khi biển động "cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối", từ khi Cách Mạng về, cuộc sống của họ đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo chưa lúc nào buông tha. Cuộc sống của những người ngư dân trên biển hoá ra không hề thơ mộng, lãng mạn như bức tranh trong thời xưa về hình ảnh "thuyền ngư phủ lạc trong sương" (Xuân Diệu) mà vất vả, lam lũ vì gánh nặng mưu sinh, bế tắc cùng quẫn vì hơn chục con người chen chúc trên một chiếc thuyền chật chội, tăm tối, nhục nhã vì tình trạng thất học và bạo lực nặng nề...Đề bi kịch thương ngày của người đàn bà hàng chài diễn ra sau những bãi xe tăng đổ nát của chiến trường xưa, có lẽ NMC muốn gợi ra cho người đọc những lo âu, suy ngẫm: Cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo, tăm tối và bạo lực còn gian nan, lâu dài hơn cả cuộc chiến đấu chống ngoại sâm. Chừng nào chưa thoát khỏi đói nghèo thì chừng đó con người còn phải sống chung với cái xấu, cái ác. Chúng đã đổ xương máu bao nhiêu năm qua để giành được độc lập, tự do trong "cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc", cho quyền sống của từng con người, để đem lại cơm cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa đến cho biết bao con người vẫn đang chìm đắm trong kiếp sống tăm tối, đói nghèo.

2. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài đau khổ và bất hạnh, nhà văn còn muốn bộc lộ niềm tin yêu và vẻ đẹp trong tâm hồn, tích cách con người.

Chính nguyên nhân của thái độ cam chịu nhẫn nhục khi người đàn bà triền miên chịu đựng những trận đòn của chồng đã khiến người đọc nhận ra vẻ đẹp trong tầm hồn, tính cách của chị.

2.1 Sự sâu sắc của một con người từng trải

Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà làng chài quê mùa thất học có "con mắt như đang nhìn suốt cuộc đời mình", có "sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời", đã khiến các anh trở nên nông nổi, ngây thơ. Những sự giận giữ, bất bình, thấm đẫm lòng nhân hậu, những lời khuyên đầy thiện chí, những giải pháp tưởng như đúng đắn: "Cả nước này không có người chồng nào như hắn...chị không sống nổi với lão đàn ông vũ phu ấy đâu" đều lần lượt vấp phải những lí lẽ bình dị, nghiệt ngã và không thể thay đổi của hiện thực cuộc sống. Chị chỉ rõ sự thiếu thực tế của họ "lòng các chú tốt nhưng các đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Chị cũng cho họ thấy dự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong cuộc sống bấp bênh và luôn tiềm ẩn những đe doạ bất thường trên mặt biển: "Các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông"..."đàn bà hàng chài chúg tôi cần có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con"...Chị còn giúp Đẩu và Phùng nhận ra tình trạng luẩn quẩn bế tắc trong cuộc sống của một ngư dân trên biển: Ở thuỳen thì bực bộc, bức bối nhưng lên bờ thị lại phải bỏ nghề mà sự phụ thuộc của họ lại gắn chặt với nghề này vì vậy những chính sách của Nhà nước nhiều khi cũng trở nên bất cập với thực tế cuộc sống của họ: "làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có làm được cái thuyền lưới vó. Từ ngày CM về, CM đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở vì không bỏ nghề được!". Trước kết luận chua chát của Đẩu về cái nghịch lí xót xa: "Trên thuyền phải có một người đàn ông dù hắn man rợ tàn bạo", người đàn bà sông nước có một lời đáp thật sâu sắc, chân tình mà thắt vào lòng người đọc bởi những chiêm nghiệm rút ra từ một cuộc đời gian truân vất vả: "Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!", tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của cả hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế ... đã tạo ra sự đối sánh với người đàn bà từng trải hiểu đời, hiểu người, hiểu những sự có thể và không thể của cuộc sống đời thường. Sự sâu sắc cảu chị chiến người đọc khâm phục nhưng cũng xót thương hơn cho một kiếp người.

2.2 Qua câu chuyện đau lòng của cuộc sống bi kịch con người, NMC đã thể hiện niềm trân trọng sâu sắc và tấm lòng bao dung của con người.

Chị chịu đựng những trận đòng tàn nhẫn của chồng không chỉ vì bản tính nhẫn nhục cam chịu mà con như một cách giúp lão làm vơi đi những u uất, khổ sở chất chứa trong lòng. Chính vì thế, mà chị hoàn toàn tự nguyện, lặng lẽ theo chồng lên bờ, lặng lẽ đi vào sâu phía sau bãi xe tăng , lặng lẽ đứng lại chờ trận đòn giận dữ như lửa của chồng, lặng lẽ chịu đòn "không hề kêu một tiếg, không chống trả cũng không tìm cách trốn chạy", để rồi sau đó đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng hỏng đuổi theo gã đàn ông. Cả hai người trở về thuyền, đó là cách cư xử của một người đang cố gắng thể hiện những bổn phận, nghĩa vụ của mình dù đó là những bổn phận, nghĩa vụ phi nhân tính. Chị thấu hiểu nỗi khổ của chồng, thậm chí còn mang một mặc cảm có lỗi khi cho rằng "lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá mà thuyền lại chật". Người vợ hiểu rõ nỗi hi sinh, nhọc nhằn trên mặt biển đầy sóng gió, sự nghèo đói, túng quẫn trên một con thuyền chật chột, những cay đắng bế tắc triền miên đã vượt khỏi giới hạn chịu đựng của con người khiến "Anh con trai cục tính nhưng hiền lành" không bao giờ đánh đập vợ đã dần trở thành lão chồng vũ phu, độc ác không phải vì thù ghét gì người vợ khốn khổ, lão đánh vợ như người khác uống rượu cho quên nguôi nỗi cơ cực của mình. Nếu cả Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu, nhẫn nhục của người vợ thì khi hiểu ra nguyên nhân của thái độ ấy họ lại càng kinh ngạc về sự nhân hậu vị tha trong tấm lòng người đàn bà hàng chài cũng lớn lao kì lạ bởi mức "không thể nào hiểu được" - cảm động nhất là vẻ đẹp của tình mẫu tử trong trái tim người đàn bà hàng chài.

· Tình mẫu tử được chị coi như một thiên tính dương nhiên nhiên của người phụ nữ: "Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được".

· Chính tình thương yêu sâu sắc với con cái đã khiến chị phải nhẫn nhục, chịu đựng đầy ải tàn nhẫn của người chồng để con thuyền có đàn ông khoẻ mạnh, biết nghề cùng mình "chèo chống khi phong ba" để cùng làm ăn nuôi nấng con cái, cũng vì thương con sợ các con bị tổn thương vì cảnh bạo lực đau lòng mà chị phải xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh; rồi vì lo những phản ứng dữ dội của thằng Phác, "Sao thằng bé có thể làm những điều dại dột với ba nó", mà chị phải cắn răng gửi thằng con chị yêu thương nhất lên rừng sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy "tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như cũng chẳng bao giừo để lộ rõ rệt ra bên ngoài".

· Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn, chị đã lặng lẽ chịu đựng như một người câm, vậy mà khi thằng Phác lao tới đánh bố để cứu mẹ, chị lại không nén nổi nỗi đau đớn. Chị "mếu máo" gọi con, "ngồi xệp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi ôm chầm lấy". Thằng bé đã từng "như một viên đạn bắn vào tâm hồn người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà , làm rỏ xuóng những dòng nước mắt". Tới khi nói chuyên vơí Đ và P, nhắc tới thằng Phác, chị vẫn khóc - tiếng khóc của tình thương con nỗi đau đớn quặn thắt trong trái tim người mẹ: nỗi đau khi không che chắn nổi cho tuổi thơ các con được trong sáng, đau thêm nỗi đau của các con khi phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình, càng đau hơn bởi nỗi sợ hãi cho sự phát triển tính cách của con trong môi trường tăm tối, bạo lực..., bao trùm lên tất cả là nỗi đau của người mẹ yêu thương con, mong con khôn lớn mà lại không thể đem đến cho con cuộc sống no ấm, bình yên.

· Tình mẫu của chị không chỉ được thể hiện qua nước mắt mà còn thể hiện ra qua niềm vui vùi dẫu hiếm hoi, ít ỏi - những niềm vui chắt ra từ những cay đắng, nhọc nhằn...Khi chắc tới những lúc vợ chồng con cái sống hoà thuận trên thuyền, "khuôn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười". Cam chịu, nhẫn nhục vì con, lam lũ vất cả vì con, cho nên riêg niềm vui của chị cũng xuất phát từ con cái, chị bày tỏ chân thành, cảm động: "vui sướng nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no". Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng của những người phụ nữ VN nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Nhân vật người đàn bà hàng chài còn đem đến cho người đọc những ấn tượng thật đặc biệt. Luôn ý thức sâu sắc về thân phận, về ý nghĩa cuộc sống, về thiên chức cảu mình, đó là những nguyên nhân khiến chị có thể chịu đựng tất cả những lúc khó khăn, thử thách, từ những lam lũ, vất vả của đói nghèo đến những đau đớn khổ ải trong bi kịch gia đình, lấy sự chịu đựng phi thường của mình, cố gắng che chở cho sự bình yên của gia đình, bảo vệ niềm tin trong trẻo, ngây thơ ấy cho tâm hồn con trẻ, gánh đỡ cho chòng những nhọc nhằn, cay dắng - dù những cố gắng ấy vẫn luôn thất bại ê chề trước sự khắc nghiệt của cuộc sống. Mỗi khi nhìn lại bức ảnh về "Chiếc thuyền ngoài xa", bao giờ nghệ sĩ Phùng "cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên mặt đất chắc chắn, hoà lẫn trong đám đông...". Đó là hình ảnh những con người vô danh, khốn khổ, lầm lũi, họ đã vượt lên tất cả những gian truân cay đắng của cuộc đời, không phải vì mình mà vì những người thân yêu - lí do để họ sống và chịu đựng, cũng là cội nguồn sức mạnh của họ.

III. Kết bài

Qua những nét khắc hoạ ấn tượng, người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh, giúp nhà văn NMC thể hiện những tư tưởng đạo lí sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận những con người bất hạnh, khốn khổ, bị cầm tù giữa đói nghèo tăm tối và bạo lực; đó còn là niềm tin yêu trước những phẩm chất tôt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống với lòng nhan hậu vị tha và dũng cảm.

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số truyện đặc biệt thành công của văn xuôi VN thời đổi mới. Tác phẩm cho thấy "mối quan hệ hoài thường thực" của nhà văn NMC và số phận con người trong cuộc sống đời tư - thế sự, niềm khao khát "tìm kiếm tôn vinh vẻ đẹp con người", những khắc khoải lo âu trước cái xấu, cái ác... tác phẩm cũng đồng thời thể hiện vẻ đẹp của nghệ thuật văn xuôi NMC với lối văn giản dị và thấm thía, nhiều dư vị, nhiều trải nghiệm thâm trầm qua những triết lí nhân sinh sâu sắc.

djghjfdg
djghjfdg
Trả lời 12 năm trước

Nguyễn Minh Châu là tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam sau 1975. Ông thành công với nhiều tác phẩm như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Chiếc thuyền ngoài xa…Nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc là tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bả về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trôn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Người đàn bà ấy nhẫn nhục, cam chịu, thầm lặng chịu đựng mọi đau đớn tất cả vì những đứa con.
Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :"Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn". Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: " Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được". Chị " phải sống cho con chứ không thể sống cho mình".
Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mời hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hi vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : "..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “ trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.
Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Tran Van Trung
Tran Van Trung
Trả lời 12 năm trước
Mở bài:
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh cao thượng mà khiến khi gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Thân bài:
Để tạo nên hình tượng người đàn bà ấy nhà văn đã tạo ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống độc đáo này mà nhân vật dần hé lộ số phận: Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Cảnh đẹp đến nỗi Phùng có cảm giác bối rối, trái tim như bị bóp thắt vào. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ. Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì Chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: CHỊ LÀ NGƯỜI VÔ DANH.
Lần đầu chị xuất hiện: Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Chị bị chồng hành hạ một cách tàn nhẫn: Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải nói với nhau họ đã nói hết, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: "Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!". Kì lạ thay chị vẫn lặng im chịu đựng, vẫn lặng yên như một sự cam chịu ”Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”.
Chị là ai ?
+ Trước đây Chị vốn là con của một gia đình khá giả nhưng số phận đã không may mắn với chị. Chị mắc bệnh đậu mùa. Di chứng để lại đó là Cái xấu, cái xấu xí thô kệch đã đeo đuổi chị như một định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ cho đến tận bây giờ.
+ Vì xấu xí không ai lấy nên chị trót có mang với một anh hàng chài nhà ở giữa phá vẫn hay đến nhà chị mua bả về đan lưới. Thế rồi thành vợ thành chồng. Chị xuống ở luôn dưới thuyền. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh: “có nhiều tháng biển động phải ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...
+ Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu. Lão chồng của chị từ một anh con trai “hiền lành nhưng cục tính” đã trở thành một kẻ vũ phu lỗ mãng. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống. Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh 1 con thú, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". “Mày” ở đây là vợ ông ta. “Chúng mày” là vợ con của ông ta. Họ là những đồng loại rất gần gũi với ông ta. Cay đắng thay cho số phận của chị.
+ Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên. Thậm chí chị còn yêu cầu hắn “ Muốn đánh chị thì đưa chị lên bờ để đánh vì chị không muốn để những đứa con nhìn thấy cảnh bố hành hạ mẹ”. - Vì đâu chị lại chịu đựng và cam chịu như vậy ?
+ Chị coi việc mình bị đánh đó như 1 phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Vì chị rất thấu hiểu lẽ đời. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh trên biển không có người đàn ông. trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”.
+ Chị cũng hiểu và thông cảm cho chồng: chị thừa nhận chồng chị trước kia là anh con trai hiền lành nhưng cục tính, chẳng qua vì đói nghèo, thất học, túng quẫn lão chồng mới sinh ra vậy. Đây chính là sự hiểu đời, sự thông cảm và vị tha của chị. Chị không hề oán trách chồng mà ngược lại chị rất cảm thông và vị tha. Chị là người có đức hi sinh cao thượng.
Không chỉ vậy, nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Tình mẫu tử của chị đã vút lên trên cái nền của 1 cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa . Vì thương con chị đã luôn miệng xin quý tòa đừng bắt con bỏ nó. Chị hiểu như thế nào là nỗi đau của những trẻ thơ sống trong cảnh bố mẹ ly dị. Chị không muốn nhìn cảnh các con thấy bộ mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão đàn ông vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Vì thương con mà chỉ đưa thằng Phác lên bờ để sống. Vì thương con mà chị đã đau đớn nhìn cảnh thằng Phác vì thương mẹ mà đã chống trả lại bố đẻ của mình. Trong đau khổ chị vẫn luôn chắt lọc những niềm vui ví như khi nhìn các con được ăn no, được nô đùa hay có lúc chị và chồng chị cũng có những giây phút đầm ấm, hòa thuận. Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương mê muội, đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
+ Phùng và Đẩu là hai cán bộ cách mạng vừa bước ra khỏi chiến tranh. Mới đầu các anh căng thẳng, các anh không hiểu nhưng sau đó, qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ. Qua câu chuyện của người đàn bà, họ càng thấy rõ: Không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, không thể có cái nhìn một chiều, phiến diện với con người và cuộc sống mà phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều, phổ quát thì mới hiểu được những sắc cạnh của cuộc đời. Vì “con người thì đa đoan, cuộc đời thì đa sự”. Đây cũng là nét mới trong văn xuôi sau năm 1975 mà NMC chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".

Nghệ thuật: Sử dụng biện pháp đối lập (giữa hình thức và tâm hồn), đặt nhân vật trong tình huống nhận thức độc đáo, Nguyễn Minh Châu giúp người đọc khám phá “….ẩn dấu” trong “bể sâu tâm hồn” người đàn bà hàng chài.