ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư đối với nước ta hiện nay?

Cần làm câu này để nộp bài kiểm tra, nhờ mọi người làm giúp mình với !

Linh
Linh
Trả lời 4 năm trước

Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, vũ trang cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở nước ta, việc nghiên cứu, khai thác và học tập những di sản lý luận của Mác trở thành việc làm cần thiết trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hướng khai thác lý luận này theo chúng tôi nên tập trung vào những nội dung sau đây:

Một là,Khai thác những di sản lý luận trong học thuyết này về nền kinh tế hàng hoá.

Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Cho nên, chính Mác chứ không phải ai khác, là một trong những người nghiên cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Thực chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hiện nay gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế thị trường ở nước ta có tính đặc thù của nó, song đã là sản xuất hàng hoá thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nghiên cứu những phạm trù, công cụ và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực tiễn.

Ngay từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế thị trường, qua thị trường, giai cấp tư sản mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động, mới bán được hàng hoá và do đó bóc lột được giá trị thặng dư do người lao động tạo ra. Trong nền kinh tế thị trường, dưới tác động của các quy luật kinh tế, trong đó có quy luật giá trị thặng dư, các nhà tư bản-các doanh nghiệp đã không ngừng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, tích cực hợp lý hoá quá trình sản xuất, tiết kiệm các yếu tố đầu vào, tìm hiểu nhu cầu thị trường… để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh… được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ, từ đó làm cho nền kinh tế trở nên năng động. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong khu vực kinh tế nhà nước và tập thể, chúng ta cần vận dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư mà các nhà tư bản đã sử dụng để phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế kết hợp với thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.

Hai là, làm rõ hơn bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngay trong thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư, chúng ta phải khẳng định rằng, sự giàu có của nhà tư bản là kết quả của sự bóc lột giá trị thặng dư. Có người cho rằng, nhà tư bản thu nhiều lợi nhuận là do lao động quản lý, lao động khoa học – kỹ thuật của nhà tư bản. Thực tế, trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, nhiều nhà tư bản đồng thời là giám đốc, thậm chí còn là cán bộ khoa học kỹ thuật nữa. Những chức năng quản lý và khoa học kỹ thuật ấy thuộc phạm trù lao động, không thuộc phạm trù tư bản. Nếu nhà tư bản kiểm cả chức năng quản lý và khoa học kỹ thuật thì trong thu nhập của nhà tư bản sẽ bao gồm giá trị mới do lao động quản lý và khoa học kỹ thuật tạo ra cộng với giá trị thặng dư chiếm đoạt không phải trả công.

Khi phê phán luận điểm của nhà kinh tế chính trị học J.Say cho rằng lợi nhuận doanh nghiệp là tiền công trả cho lao động quản lý của nhà tư bản, C.Mác đã chỉ rõ: Chỉ cần dành ra một khoản thù lao nhỏ mọn là nhà tư bản có thể trút gánh nặng quản lý đó cho người giám đốc làm thuê nhưng nhà tư bản vẫn thu được lợi nhuận doanh nghiệp. Ở những vùng công nghiệp của nước Anh, sau mỗi lần khủng hoảng, một số khá nhiều những cựu chủ xưởng với một số tiền thù lao nhỏ nhặt đã đứng ra trông nom những nhà máy trước đây là của chính họ, trông nom với tư cách là những người quản lý, phục vụ cho những chủ mới, thường là chủ nợ của họ. Ngày nay, trong các công ty và xí nghiệp tư bản hiện đại, chức năng quan lý thường được giao cho các managers - những người làm thuê cao cấp, nhưng các chủ sở hữu tư bản vẫn thu những khối lượng lợi nhuận khổng lồ. Như vậy, khi quy mô kinh doanh ngày càng lớn, nhà tư bản đã hiện rõ sự bóc lột của mình đó là có một khoản lợi nhuận lớn nhưng không phải bỏ sức lao động mới có được mà chỉ cần là người sở hữu tư bản.

Ba là,nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư không phải là để kỳ thị thành phần kinh tế tư bản tư nhân mà để khuyến khích nó phát triển, bởi vì có hiểu rõ bản chất của nó mới có chính sách đúng đắn với nó. Chẳng hạn, hiểu rõ mục đích và động cơ của sản xuất TBCN là thu càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, thì muốn khuyến khích thành phần kinh tế tư bản tư nhân phát triển và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài chúng ta phải có chính sách như thế nào để họ thu được lợi nhuận thoả đáng, thậm chí cao hơn lợi nhuận thu được khi học đầu tư vào các nước láng giềng của ta. Mặt khác, phải có biện pháp điều tiết bớt sự chênh lệch quá đáng giữa người giàu và người nghèo, đồng thời có các chính sách xã hội để giảm bớt bất công.

Bốn là,khai thác những luận điểm của Mác nói về qúa trình sản xuất, thực hiện, phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản nhằm góp phần vào việc quản lý các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng các thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.

Việc quản lý thành phần kinh tế tư nhân, cụ thể là bộ phận kinh tế tư bản tư nhân nhằm hạn chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian quy định của luật lao động mà không có sự thống nhất của người lao động, việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người lao động như bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho chúng ta thấy rằng chúng ta thừa nhận có sự bóc lột trong khu vực kinh tế tư nhân nhưng việc bóc lột này không thể như trong chế độ tư bản chủ nghĩa được mà người lao động cần phải được bảo vệ thông qua hệ thống pháp luật của Việt Nam. Thực tế, chúng ta cần phát triển kinh tế tư nhân để tạo nhiều việc làm, khai thác các tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, nhân lực cho phát triển sản xuất kinh doanh… nhưng người lao động vì thế cũng bị bóc lột. Nhà nước ta cũng đã có hệ thống luật pháp bảo vệ người lao động như: Luật lao động, Luật bảo hiểm, Quy định về tiền lương tối thiểu cho khu vực doanh nghiệp….nhưng vẫn chưa đầy đủ. Tuy nhiên, yếu kém nhất hiện nay trong bảo vệ người lao động là thiếu sự kiểm tra chặt chẽ và xử lý vi phạm nghiêm minh của các cơ quan chức năng đối với kinh tế tư bản tư nhân. Nhiều cuộc đình công, bãi công gần đây của công nhân nước ta ở các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chỉ rõ điều này.Tại hội nghị "Tổng kết tình hình năm 2011 và triển khai nhiệm vụ năm 2012", Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho hay, từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy ra hơn 4.100 cuộc đình công, trong đó chủ yếu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản... với hơn 3.100 cuộc, chiếm 75,4%. Tỷ lệ này đang có xu hướng tăng dần qua các năm, nhất là từ 2006. Năm 2011 đạt mức kỷ lục với 857 cuộc diễn ra trong vòng 11 tháng. Con số này của năm 2010 là 422 vụ, năm 2009 là 218 vụ, năm 2008 là 720 vụ...

Nguyên nhân được Bộ xác định trước hết do một số chủ doanh nghiệp chưa chấp hành đúng quy định luật lao động như không ký hợp đồng, không đóng bảo hiểm xã hội, không giải quyết chế độ ngày nghỉ, bảng lương...Khắc phục được yếu kém này, chúng ta sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển đồng thời đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường.

Trong tương lai, khi mà sản xuất tư bản tư nhân đã phát triển tới trình độ cao, bản thân nó sẽ đòi hỏi phải có sự biến đổi cho phù hợp với trình độ xã hội hoá cao của LLSX, thì nhà nước sẽ hướng nó đi dần vào quỹ đạo của CNXH bằng những hình thức đa dạng của CNTB, trong đó có lợi ích của nhà tư bản vẫn được đảm bảo, chứ không bị xoá bỏ hay tước đoạt.

Năm là,khai thác di sản của Mác nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với quá trình xã hội hoá sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Trên cơ sở những gì được coi là tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên, đặc biệt là về mặt tổ chức - kinh tế, vận dụng vào nền kinh tế nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn, hiện đại sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư để thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là CNH, HĐH nền kinh tế nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người lao động.

Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN, tìm ra bản chất bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn có mục đích nghiên cứu, khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú và sâu sắc về kinh tế thị trường nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới.

Qua phân tích một số vấn đề chủ yếu của lý luận giá trị thặng dư ở trên chúng ta vẫn tiếp tục khẳng định rằng học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch sử của chủ nghĩa tư bảnvẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó còn là cơ sở lý luận cho sự vận dụng vào quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

(nguồn: truongchinhtrina.gov.vn)

Xuân Ngọc
Xuân Ngọc
Trả lời 4 năm trước

cậu ơi, nếu chưa nộp bài thì xem thêm ở đây này, khá chi tiết

https://vatgia.com/hoidap/4599/149213/y-nghia-cua-viec-nghien-cuu-phuong-phap-san-xuat-gia-tri-thang-du.html