Vì sao phương pháp biện chứng duy vật khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới khách quan

Trả lời 15 năm trước
Phép biện chứng duy vật là một môn học thuyết khoa học, và cũng như bất kỳ một học thuyết khoa học, nó chứa đựng trong mình tính hệ thống chặt chẽ. Với tính cách là một hệ thống, phép biện chứng có nội dung rất phức tạp và đa dạng, có nhiều yếu tố, nhiều cấp độ và nhiều chức năng. Điều đó không phải ngẫu nhiên, vì nó phản ánh ngày càng sâu rộng thế giới hiện thực . Theo nghĩa ấy, Lê-nin viết: “Phép biện chứng với tính cách là nhận thức sinh động, nhiều mặt (số các mặt không ngừng tăng lên mãi mãi) bao hàm vô số khía cạnh trong cách tiếp cận, đi gần tới hiện thực (với một hệ thống triết học đi từ mỗi khía cạnh mà phát triển thành một toàn thể)” (1). Trong bài viết này, tác giả cố gắng làm rõ những đặc trưng của phép biện chứng với tính cách là một hệ thống chỉ ra các yếu tố, cấu trúc, chức năng của nó theo lý thuyết hệ thống. Đặc trưng của phép biện chứng với tính cách là một hệ thống. Sự tìm tòi nghiên cứu các hệ thống triết học đã có từ thời cổ đại. Nhưng về nguyên tắc, đó chỉ là sự cố gắng thiết lập nên các hệ thống trừu tượng, tư biện, không liên quan gì đến thế giới hiện thực, thậm chí có tham vọng đạt đến chân lý tận cùng, chân lý tuyệt đối. Một hệ thống kiểu như vậy, tiêu biểu là triết học Hê-ghen, mà nền tảng của nó là ý niệm tuyệt đối . Hê-ghen tuyên bố hệ thống triết học của mình là đỉnh cao của tư tưởng nhân loại, là công cụ để giải quyết mọi vấn đề, mọi mâu thuẫn của tự nhiên cũng như của xã hội. Chính sự ra đời của phép biện chứng duy vật mác-xít đóng vai trò là tinh hoa, là đỉnh cao trong sự nhận thức hiện thực khách quan. Vậy phép biện chứng có phải là một hệ thống, một hệ thống khoa học hay không? Bất kỳ một khoa học nào cũng đều biểu hiện là một hệ thống các nguyên lý và các quy luật, các tiên đề và các lý thuyết, các học thuyết và giả thuyết, các khái niệm, phán đoán và suy luận. Đó là tổng thể các hình thức lôgíc liên quan mật thiết với nhau, cái này được rút ra từ cái kia, cái này là sự cụ thể hoá của cái khác. Nguồn gốc của nó, cơ sở của nó, các yếu tố, cấu trúc và chức năng của nó không nằm ở chính nó, mà là ở trong hiện thực, trong thực tiễn. Tính chất phức tạp trên đây liên quan trực tiếp đến một khoa học trừu tượng và phổ biến- Đó là phép biện chứng duy vật. Xung quanh khoa học ấy có một số người đối lập cũng thừa nhận chức năng phương pháp luận, nhưng lại phủ nhận tính hệ thống của nó (chẳng hạn Carnap, Adorno, Marcuse..). Họ có những lý lẽ khác nhau: Không tin vào khả năng phản ánh tính vô tận của thế giới khách quan, vào trong lôgíc của các phạm trù; khẳng định rằng, trong phạm trù, các khái niệm thì tính vật chất của thế giới bị mất đi; đánh giá việc hệ thống hoá các phạm trù là công việc mang tính hình thức, tách rời khỏi nội dung của nó; khẳng định rằng, việc thiết lập một hệ thống triết học là công việc có quá khứ dã qua, không có triển vọng, và phủ nhận sự phát triển của khoa học cũng như thực tiễn… Trong khi đó tính hệ thống là bản tính tất yếu của tất thảy mọi khoa học. Khoa học nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan và sự phản ánh của chúng vào trong bộ não con người. Nhưng mọi quy luật đều là những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, ổn định và lập đi lập lại, nghĩa là thậm chí mỗi quy luật đều thể hiện tính hệ thống, các mối liên hệ, tác động qua lại của các hiện tượng và quá trình. Nhưng một khi tổng thể các hiện tượng và quá trình được phản ánh vào trong một quy luật phạm trù nào đó, thì đồng thời nó cũng liên hệ, tác động qua lại với một tổng thể khác được phản ánh vào trong các phạm trù, quy luật khác. Chính vì vậy, các quy luật, phạm trù đó cũng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Như vậy, mối liên hệ, tác động qua lại của các quy luật và các phạm trù là sự phản ánh các mối liên hệ, tác động qua lại của của thế giới khách quan. Từ đó, chúng hình thành nên các khoa học, mà được biểu hiện với tính cách là một hệ thống. Nhiệm vụ của mỗi khoa học với tính cách là hệ thống là làm thế nào để phản ánh ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, phù hợp hơn tính hệ thống của các khách thể mà khoa học đó nghiên cứu. Tất cả những vấn đề trên đều liên quan đầy đủ đến phép biện chứng duy vật với tính cách là hệ thống các nguyên lý, quy luật và phạm trù, nhằm định hướng cho sự phát triển của các hệ thống khoa học chuyên ngành. Phép biện chứng duy vật là một hệ thống chỉnh thể các hình thức lôgíc với các yếu tố nhất định, với cấu trúc nhất định, những chức năng nhất định, với mối liên hệ qua lại với môi trường, trong đó nó là một hệ thống mở, hệ thống phát triển. Thông thường chúng ta có hai phương thức xây dựng hệ thống phép biện chứng duy vật- bản thể luận và nhận thức luận. Ở phương thức thứ nhất thì cơ sở của nó là sự vận động của bản thân thế giới khách quan (từ sự vật đến các thuộc tính và các mối quan hệ của chúng); còn ở phương thức thứ hai thì đó là sự vận động của tư tưởng phản ánh sự vận động của thế giới khách quan (từ hiện tượng đến bản chất, từ cụ thể cảm tính đến trừu tượng và từ trừu tượng đến cụ thể trong tư duy). Cả hai phương thức trên đều có cơ sở để tồn tại, vì chúng đều biểu hiện tính chỉnh thể của hiện thực: hiện thực khách quan và hiện thực chủ quan. Nhiệm vụ cơ bản nhất, khó khăn nhất của các nhà nghiên cứu mác-xít là làm thế nào để liên kết chặt chẽ giữa mặt bản thể luận và nhận thức luận trong phép biện chứng duy vật. Điều này chúng ta đã thực hiện được khi coi phép biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên lý, quy luật và phạm trù nằm trong sự thống nhất, sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, mà cơ sở của sự thống nhất ấy là đi từ phạm trù vật chất với các thuộc tính cơ bản và các quy luật vận động của chúng đến khái niệm tư duy với các quy luật vận động của tư duy, đến lôgíc biện chứng. Phép biện chứng duy vật về mặt hình thức là chủ quan, nhưng về mặt nội dung là mang tính khách quan. Nó là một hệ thống chỉnh thể của các hình thức tư tưởng, đồng thời nó luôn luôn được bổ sung bởi các thành tựu của khoa học và thực tiễn. Như vậy, phép biện chứng duy vật là một hệ thống đa diện, đa chiều, có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Vì thế, có thể định nghĩa phép biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến, là khoa học về sự vận động, phát triển, hoặc với tính cách là lôgíc học, cũng như với tính cách là lý luận nhận thức. Song các khía cạnh ấy không mang bản chất độc lập, không phải là các lý luận độc lập, mà là các yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một lý luận thống nhất, một hệ thống lý luận. Cơ sở thống nhất tất cả các khía cạnh, các mặt, các đặc điểm, các nguyên lý, phạm trù của phép biện chứng duy vật- đó là thực tiễn. Chính trên cơ sở thực tiễn mà phép biện chứng duy vật mới xuất hiện và phát triển, Nhờ có cơ sở thực tiễn mà các nguyên lý, qui luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật mới có tính chân lý, mới có sự phù hợp với hiện thực . Thực tiễn khẳng định sự thống nhất cái vật chất và cái tinh thần, cái lịch sử và cái lôgíc, cái khách quan và cái chủ quan, cái tự nhiên và cái xã hội loài người. Và chính nhờ thực tiễn mới có sự thống nhất giữa phép biện chứng với chủ nghĩa duy vật tạo thành một chỉnh thể. Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, phép biện chứng duy vật với tính cách là một hệ thống khoa học khám phá ra các quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, cũng như vạch ra những con đường nhận thức và cải tạo nó. Các nguyên lý, quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật mang tính chất chung nhất, tổng hợp nhất cả về mặt bản thể luận và mặt nhận thức luận. Điều đó làm cho phép biện chứng duy vật mang một ý nghĩa phương pháp luận phổ biến và là một trong những đặc trưng để phân biệt với các hệ thống khoa học khác. Các sự vật, hiện tượng trong thế giới biểu hiện với tính cách là hệ thống các quy luật, các nguyên tắc chung nhất, các mối liên hệ tác động qua lại chung nhất, tổng hợp nhất. Ăng-ghen nói: “Tất cả giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được, là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít với nhau, nhưng ở đây , chúng ta hiểu vật thể là tất cả những thực tại vật chất, từ tinh tú đến nguyên tử, cho đến cả những hạt ê-te, nếu chúng ta thừa nhận sự tồn tại của hạt ê-te” (1). Vì vậy, phép biện chứng duy vật nghiên cứu thế giới như một chỉnh thể và nó không thể không là một hệ thống. Các yếu tố, cấu trúc và chức năng của phép biện chứng duy vật. Các yếu tố của phép biện chứng duy vật với tính cách là một hệ thống là các hình thức lôgíc của chúng để hình thành nên hệ thống ấy. Theo Lênin, các yếu tố của phép biện chứng là tất cả những gì tham gia vào phép biện chứng, trong đó ông cho rằng, yếu tố có thể là nguyên lý, quy luật, phạm trù. Trong “Bút ký triết học”, Lênin đã chỉ ra 16 yếu tố của phép biện chứng, sau đó Lênin có bổ sung thêm và không đặt vấn đề về số lượng các yếu tố của phép biện chứng. Các yếu tố của phép biện chứng duy vật mang tính chất bản thể luận (nội dung) và tính chất nhận thức luận (hình thức). Các yếu tố bản thể luận như: sự vật, hiện tượng với tính cách là hiện thực tồn tại khách quan, sự thống nhất của các mặt đối lập, sự đấu tranh của các mặt đối lập, lượng đổi dẫn đến chất đổi,.. Các yếu tố nhận thức luận như: quy luật, phạm trù,… Số lượng và bản chất của các yếu tố của phép biện chứng duy vật luôn luôn thay đổi và ngày càng chính xác, đầy đủ và cụ thể hơn cùng với mức độ phát triển của tri thức triết học. Chiếm một vị trí quan trọng trong phép biện chứng duy vật là nguyên lý- những quan điểm cơ sở, nền tảng, làm tiền đề cho các quy luật và các phạm trù. Chẳn hạn: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý về sự phát triển. Cả hai nguyên lý ấy đều xuất phát và dựa trên nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế giới. Các nguyên lý ấy mang tính phổ quát nhất, được xác định là đối tượng nghiên cứu của phép duy vật biện chứng. Vì vậy, Ăngghen đã nói, phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Sự cụ thể hoá các nguyên lý là các quy luật và các phạm trù. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng (gọi là cơ bản bởi vì nó vạch ra các khía cạnh cơ bản của sự phát triển): quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại, quy luật phủ định của phủ định. Chúng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong quan niệm biện chứng về sự vận động, phát triển, bởi vì chúng biểu hiện bản chất của các quan niệm ấy, liên kết tất cả nội dung của nó. Các phạm trù là các hình thức lôgíc thiết lập nên hệ thống phép biện chứng duy vật. Đó là các khái niệm chung nhất, phản ánh những đặc điểm những mối liên hệ, những mặt, những thuộc tính chung nhất, tổng hợp nhất của thế giới khách quan và đóng vai trò là những nấc thang trong hoạt động nhật thức và hoạt động thực tiễn của con người. Đó là các phạm trù: vật chất vận động, không gian và thời gian, lượng, chất, độ, tổng thể các cặp phạm trù… Mối liên hệ giữa các nguyên lý, quy luật, phạm trù, nghĩa là mối liên hệ giữa các hình thức lôgíc tham gia vào phép biện chứng hình thành nên cấu trúc nội tại của phép biện chứng. Nhưng mặt khác, các phạm trù thiết lập nên các quy luật của phép biện chứng, còn các quy luật biểu hiện mối liên hệ của các phạm trù. Chẳng hạn, quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi biểu hiện là mối quan hệ giữa lượng và chất… Đôi khi về hình thức, hoặc về mặt thuật ngữ, các phạm trù trùng khớp với các nguyên lý (nguyên lý phát triển và phạm trù phát triển). Vì vậy, sự liên hệ giữa các phạm trù lại thiết lập nên nguyên lý. Ví dụ: Nguyên lý tính thống nhất vật chất của thế giới có tiền đề từ các phạm trù vật chất và thốngnhất,… Rút cuộc, có thể nói rằng, phép biện chứng là tổng thể, là hệ thống các phạm trù liên hệ, tác động qua lại với nhau và như vậy, có thể xem cấu trúc của hệ thống phép biện chứng với tính cách là hệ thống các phạm trù. Phép biện chứng không thể là một khoa học, nếu nó không phải là hệ thống các phạm trù. Trong hệ thống, các phạm trù phản ánh tính toàn vẹn, tính thống nhất của các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất, còn mối liên hệ nội tại của chúng biểu hiện tính toàn vẹn và tính quy luật của quá trình thống nhất của thế giới. Các phạm trù riêng lẻ có thể phản ánh những mặt nào đó của quá trình ấy, chỉ trong một tổng thể thì chúng mới mang lại cho chúng ta các tri thức một cách đầy đủ và sâu sắc. Việc xây dựng hệ thống các phạm trù cần xuất phát từ nguyên lý thống nhất giữa phép biện chứng, lôgíc và lý luận nhận thức và từ sự phân tích bản thân quá trình nhận thức. Chúng ta có thể phân chia thành ba nhóm các phạm trù sau đây: Thứ nhất, các phạm trù liên quan trực tiếp đến việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học (vận động, phát triển, không gian, thời gian, phản ánh…); thứ hai, các phạm trù biểu hiện các quy luật của phép biện chứng (cái toàn thể và cái bộ phận, cái chung- cái riêng, bản chất- hiện tượng, thống nhất và mâu thuẫn, số lượng- chất lượng, phủ định và phủ định của phủ định,..); thứ ba, các phạm trù phản ánh trực tiếp quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn (chân lý, thực tiễn, chủ thể và khách thể, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể)… Các phạm trù trên đây biểu hiện là sự thống nhất của hai mặt bản thể luận và nhận thức luận, chúng có nội dung khách quan, phản ánh trực tiếp hay gián tiếp thế giới khách quan và liên quan đến viêc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học và có ý nghĩa sâu sắc. Với tính cách là một hệ thống và ngày càng được mở rộng, phép biện chứng duy vật có những chức năng đặc trưng riêng cho mình, tương ứng với các yếu tố và cấu trúc của nó. Các chức năng ấy thể hiện vị trí và vai trò của nó trong hệ thống các khoa học và trong đời sống xã hội. Sự khác biệt của phép biện chứng duy vật với các khoa học cụ thể trước hết là ở chỗ, nó thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. Cả hai chức năng ấy đều chứa đựng các chức năng bộ phận của nó. *Chức năng thế giới quan của phép biện chứng duy vật còn được gọi là chức năng phản ánh- thông tin, bởi vì phép biện chứng duy vật cũng như các khoa học khác đều thể hiện là một hệ thống thông tin phức tạp và là hệ thống các phương thức thu nhận thông tin, phân tích, xử lý thông tin, nhằm thu được các tri thức mới, các tiếp cận thực tiễn mới. Hay nói cách khác, phép biện chứng duy vật là một hệ thống tri thức lý luận, phản ánh chân thực hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm. Trong phạm vi chức năng thế giới quan, chúng ta có thể phân chia thành chức năng bản thể luận và chức năng nhận thức luận. Chức năng bản thể luận thể hiện ở chỗ, phép biện chứng duy vật vẽ ra được một bức tranh tổng hợp về thế giới, từ đó chúng ta có được một hệ thống các quan điểm về thế giới. Còn chức năng nhận thức luận thể hiện ở chỗ, nó tạo ra học thuyết về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, về tính tích cực của chủ thể… *Chức năng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật thể hiện ở chỗ, với tính cách là kết quả của sự phát triển của các khoa học cụ thể và thực tiễn xã hội, nó cung cấp những nguyên tắc và sự định hướng chung nhất cho khoa học cụ thể cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Phép biện chứng duy vật thể hiện là phương pháp luận nhận thức khoa học nằm trong sự thống nhất không thể tách rời với các khoa học cụ thể. Không những thế, phép biện chứng duy vật còn trang bị cho con người những công cụ, phương tiện, phương pháp để nhận thức và hoạt động thực tiễn. Giữa chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chỉ có thể xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn, chúng ta mới có được những cách giải quyết phù hợp về các vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Còn ngược lại, xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm, chúng ta không thể tránh khỏi hành động sai lầm. Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng- một trong những biểu hiện cụ thể thể hiện chức năng phương pháp luận của phép biện chứng duy vật. Ngoài hai chức năng cơ bản trên đây, phép biện chứng duy vật còn thực hiện chức năng giá trị luận. Gía trị là hệ thống những chuẩn mực, những lý tưởng mà con người khao khát vương tới nhằm hoàn thiện nhân cách của mình. Ở đây, phép biện chứng duy vật cung cấp cho con người hệ thống các giá trị nhằm xác định, định hướng, điều chỉnh các hành vi, từ đó hình thành nên nhân sinh quan trong sự tồn tại ngày càng hợp lý của con người. Con người cần phải thẩm định, đánh giá , làm cho thế giới không chỉ tồn tại tự nó, mà còn là thế giới trong sự nhận thức và cải tạo của con người. Một chức năng bộ phận quan trọng trong chức năng giá trị luận là chức năng giáo dục- tư tưởng. Phép biện chứng duy vật là cơ sở lý luận và phương pháp luận của hệ tư tưởng. Cũng như hệ tư tưởng nói chung, phép biện chứng duy vật mang tính đảng và tính giai cấp sâu sắc. Được xuất hiện với tính cách là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, phép biện chứng duy vật phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp giải phóng nhân loại ra khỏi áp bức, bóc lột giữa người với người và trong sự nghiệp xây dựng một xã hội mới trong tương lai tốt đẹp hơn. Bên cạnh chức năng giáo dục- tư tưởng là chức năng giáo dục- văn hoá trong đó điều cơ bản là hình thành trong con người những phẩm chất chính trị- tư tưởng, các mối quan hệ khách quan đối với hiện thực. Và như vậy, phéo biện chứng duy vật thực hiện chức năng quản lý xã hội, nhờ đó Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa vận dụng để thực hiện các quá trình xây dựng và cải tạo xã hội vì hạnh phúc của con người. Tất cả các chức năng trên đây của phép biện chứng duy vật thống nhất và liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vận dụng phép biện chứng duy vật không phải chỉ đơn giản là vạch ra các nguyên lý, quy luật, phạm trù của nó, mà quan trọng là phải làm rõ bản chất, cốt lõi của nó, áp dụng nó trong thực tiễn, trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể mà cuộc sống đặt ra. Tóm lại, phép biện chứng duy vật là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá và điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình. Nó là khoa học về các quy luật chung nhất của sự vận động phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy về các quy luật hệ thống. Do vậy, việc nghiên cứu và áp dụng phép biện chứng duy vật không thể không mang tính hệ thống.