Giúp em câu hỏi triết?

Em có câu hỏi triết như sau:

1.''tại sao ý thức mang tính chủ quan ?lấy ví dụ?

2.ý nghĩa phương pháp luận giữa vật chất và ý thức?cho ví dụ?

3.ý nghĩa phương pháp luận cua nguyên lý mối liên hệ phổ biến?cho ví dụ?

4.ý nghĩa phương pháp luận cua nguyên lý về sự phát triển ?cho ví dụ?

em thanks

rtỵky
rtỵky
Trả lời 13 năm trước

1. Tại sao ý thức mang tính chủ quan ?lấy ví dụ?

Theo quan điểm của Mác về bản chất của ý thức:

Ý thức là sự pa hiện thực khách quan vào bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo, bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan

+Ý thức là sự phản ánh nhưng không phải mọi sự phản ánh là ý thức mà ý thức là sự phản ánh cao nhất của TG khách quan, nó là sự phả ánh năng động, sáng tạo được thể hiện ở chỗ không phải là phản ánh nguyên xi hiện thực của chúng mà là sự phản ánh hiện thực vào bộ óc con người và có sự cải biến trong (thể hiện tính sáng tạo của nhận thức) tức là sự phản ánh có biến đổi (Điều này chính là thể hiện tính chủ quan của ý thức).

-Mác nói ý thức chẳng qua là vc được nan chuyền vào trong đầu óc con người và được cải biến ở trong đó.

+Sự sáng tạo được thể hiện: có thể sáng tạo ra những tri thức mới dựa trên nhưng tri thức đã biết về đối tượng.

-trên cơ sở nhận thức về đối tượng con người có thể sáng tạo ra đối tượng mới

- Đặc biệt ý thức luôn được thể hiện qua ngôn ngữ thực chát là sáng tạo lại hiện thực theo nghĩa mã hoá các năng lượng cv thành các năng lượng phi vc.

Vì vc thì tồn tại một cách khách quan ngoài ý thức của con người còn ý thức là hiện thực chủ quan tồn tại bên trong bộ óc người vì vậy ý thức luôn chỉ là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan.

Như vậy ý thức mang tính chủ quan bởi sự phản ánh của thế giới vật chất phụ thuộc rất nhiều vào sụ nhận thức, biến đổi bên trong bộ óc con người. Mỗi người có trình độ khác nhau, góc nhìn khác nhau sẽ dẫn đến nhận thức (hay ý thức) về sự vật hiện tượng khác nhau ( ý thức luôn chỉ là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan) là vì vậy.

VD:Cái cây bên ngoài và cái cây do con nguời nhận thức; cái cây trong nhận thức phụ thuộc vào khả năng của mỗi bộ óc con người.

VD 2: trong chuyện thầy bói xem voi người sờ vào cái vòi thì chỉ nhận thức được cái vòi, người sờ vào cái tai thì có nhận thức về cái tai..... vì họ mù nên không nhìn thấy và không nhận thức được tất cả các bộ phận đó mới cấu thành 1 con voi dẫn đến ý thức về con voi bị lệch theo chủ quan của mỗi người.

2. ý nghĩa phương pháp luận giữa vật chất và ý thức?cho ví dụ?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức đồng thời vạch ra sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối lên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nói đến vai trò ý thức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý thức tự nó không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại cuộc sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu:
- nhận thức cho được quy luật khách quan,
- biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan,
- phải có ý chí,
- phải có phương pháp để tổ chức hành động.
Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về:
- bản chất quy luật khách quan của đối tượng,
- trên cơ sở ấy con người xác đinh đúng đắn mục tiêu và đề ra phương pháp hoạt động phù hợp.
Con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hhiện tổ chức các hoạt động tực tiễn để thực hiện mục tiêu đề ra.
Ở đây ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng thế giới khách quan. Ngược lại nếu ý thức phản ánh sai sự thật khách quan thì sẽ dẫn đến sai lầm và thất bại.
Vì vậy phải phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan.
Tuy nhiên, cơ sở để phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan của ý thức là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của thế giới vật chất. Nếu như thế giới vật chất và những quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì tôi hay bạn, chúng ta sẽ rơi vào không tưởng và duy ý chí.

3. ý nghĩa phương pháp luận cua nguyên lý mối liên hệ phổ biến?cho ví dụ?

Trước hết, chúng ta cần phân biệt rõ khái niệm về nguyên lý và khái niệm về mối liên hệ. Nguyên lý là những nluận điểm về học thuyết lý luận mà tính chân lý của chúng là hiển nhiên không cần chứng minh được xác định trong tư duy của con người có chức năng lý giải mọi sự vật hiện tượng. Ví dụ: Mặt trời mọc hướng đông lặn hướng tây là một chân lý không do nhận thức chúng ta quyết định. Người định ra được sự việc trên chỉ là định ra một nguyên lý mà thôi.
Mối liên hệ là dùng để chỉ sự ràng buộc, làm tiền đề chỉ ra sự tồn tại giữa các mặt trong 1 sự vật hay giữa các sự vật với nhau, mối liên hệ trên mang tính phổ biến, gồm có liên hệ bên trong và bên ngoài; liên hệ gián tiếp và trực tiếp. Vì vậy, khi xem xét chúng ta có cái nhìn toàn diện. Liên hệ trong không gian xem xét sự vật ở vị trí khác nhau dẫn đến có mối liên hệ khác nhau. Liên hệ thời gian, xem xét mối liên hệ khi chúng ở nhiều thời điểm, quá trình khác nhau của sự phát triển. Vì dụ: Hôm nay, anh ta là người xấu nhưng ngày mai anh ta trở thành người tốt.
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ ràng buộc lại với nhau. Mối liên hệ này phải là mối liên hệ phổ biến khách quan để sự vật và hiện tượng luôn phát triển, không cô lập. Mối liên hệ phổ biến khách quan chi phối tổng quát mọi sự vận động của sự vật, hịên tượng.
Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta phải chú trọng tất cả các mối liên hệ, đánh giá đúng vai trò mối liên hệ đang chi phối đối tượng. Qua hoạt động thực tiễn, chúng ta sử dụng nhiều biện pháp, phương tiện thích hợp để thúc đẩy mối quan hệ đó phát triển một cách tích cực. Ví dụ: Về không gian, trước đây anh ta là con nhà giàu, nhưng hiện nay anh ta là người nghèo. Vì vậy trước đây anh ta là người tốt nhưng hiện nay anh ta trở thành kẻ trộm cắp.
- Nguyên lý về sự phát triển: Như chúng ta đã biết, phát triển là khuynh hướng của vận động, đi từ thấp đến cao, đi từ đơn giản đến phức tạp. Còn vận động thì có cái sinh ra và có cái mất đi; có cái vận động đi lên, có cái vận động đi xuống. Phát triển gồm có: phát triển trong tự nhiên là thích nghi cơ thể với môi trường; trong XH là nâng cao năng lực tự nhiên ; trong tư duy là hoàn thiện khả năng nhận thức của con người.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn không ngừng vận động và phát triển. Vì vậy, khi xem xét 1 sự vật phải có quan niệm sự vật đó phát triển (như đã nói ở trên phát triển là khuynh hướng vận động đi từ thấp đến cao).
Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta cần chú trọng đến điều kiện khả năng, tình hình thực tế của đối tượng để nhận ra mọi xu hướng thay đổi có thể xảy ra đối với đối tượng.
Thông qua các hoạt động thực tiễn, chúng ta cần xây dựng nhiều biện pháp thích hợp để biến đổi đối tượng; phát huy những mặt tốt, hạn chế những mặt xấu của đối tượng, hướng đối tượng vận động theo quy luật phù hợp với lợi ích (phát triển).

4.ý nghĩa phương pháp luận cua nguyên lý về sự phát triển ?cho ví dụ?

Nguyên lý về sự phát triển: Như chúng ta đã biết, phát triển là khuynh hướng của vận động, đi từ thấp đến cao, đi từ đơn giản đến phức tạp. Còn vận động thì có cái sinh ra và có cái mất đi; có cái vận động đi lên, có cái vận động đi xuống. Phát triển gồm có: phát triển trong tự nhiên là thích nghi cơ thể với môi trường; trong XH là nâng cao năng lực tự nhiên ; trong tư duy là hoàn thiện khả năng nhận thức của con người.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn không ngừng vận động và phát triển. Vì vậy, khi xem xét 1 sự vật phải có quan niệm sự vật đó phát triển (như đã nói ở trên phát triển là khuynh hướng vận động đi từ thấp đến cao).
Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta cần chú trọng đến điều kiện khả năng, tình hình thực tế của đối tượng để nhận ra mọi xu hướng thay đổi có thể xảy ra đối với đối tượng.
Thông qua các hoạt động thực tiễn, chúng ta cần xây dựng nhiều biện pháp thích hợp để biến đổi đối tượng; phát huy những mặt tốt, hạn chế những mặt xấu của đối tượng, hướng đối tượng vận động theo quy luật phù hợp với lợi ích (phát triển).

Hoàng Bảo Châu
Hoàng Bảo Châu
Trả lời 4 năm trước

1:

Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ ócngười, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Nên ý thức mang tính chủ quan

VD: thời xa xưa, trái đất tròn hay vuông còn tùy vào nhận thức của mọi người

20;

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan. Không được lấy ý muốn chủ quan thay cho điều kiện khách quan.

Thứ hai, phải thấy được vai trò tích cực của ý thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện có. Nghĩa là, phải biết động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức, tinh thần vượt khó vươn lên, v.v.

Thứ ba, tránh không rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối hoá điều kiện vật chất, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất kiểu “Đại Lãn chờ sung”, không chịu cố gắng, không tích cực, chủ động vượt khó, vươn lên.

Thứ tư, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, của ý chí, cho rằng, ý chí, ý thức nói chung có thể thay được điều kiện khách quan, quyết định điều kiện khách quan.

Toàn bộ ý nghĩa phương pháp này cũng là những yêu cầu của nguyên tắc (quan điểm) khách quan. Vì vậy, chúng ta thấy, chính quan điểm của triết học Mác-Lênin về vật chất, ý thức về quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) khách quan.

VD: có câu Có thực mới vực được đạo

3:

- Mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Trong đó:

+ Quan điểm toàn diện: Khi xem xét bất cứ 1 sự vật hiện tượng nào, chúng ta phải đặt nó trong quan hệ với sự vật hiện tượng khac, phải nghiên cứu các mặt cấu thành của nó, các quá trình phát triển của nó, từ trong tổng số mối liên hệ, tìm ra mối liên hệ bản chất chủ yếu …

Ví dụ: nghiên cứu 1 nước thì đặt nó trong quan hệ với các nước trong khu vực.

Xét kết nạp đảng

+ Xét các mặt cấu thành: các phòng ban trong 1 đơn vị….

+ Quá trình phát triển: xét quá trình hoạt động, công tác cá nhân để kết nạp.

+ Xét trong mối liên hệ: Quan hệ xã hội…

-Về Mặt thực tiễn:

+ Ý nghĩa 1: Để cải tạo sự vật thì phải có giải pháp đồng bộ, toàn diện. Chọn lĩnh vực nào là chủ yếu.

Trong Công tác quản lý thì phải phân cấp quản lý.

Ví dụ: nhà nước (bộ ban ngành), cơ quan (phòng, ban)…

Ví dụ: đối mới toàn diện nước ta: kinh tế, chính trị, trong đó kinh tế là trọng tâm, chính trị từng bước.

+ Ý nghĩa 2: Chống quan niệm siêu hình:

Không thấy được trọng tâm, trọng điểm, đánh giá tràn lan các mối liên hệ , không thấy đâu là chủ yếu đó là siêu hình. Chống chủ nghĩa chết chung và thuận nghị biện. Trong đó, chủ nghĩa chết chung là Kết hợp 1 cách vô nguyên tắc giữa các sự vật hiện tượng.

+ Ý nghĩa 3: Khi giải quyết 1 vấn đề cần xem xét các yếu tố cấu thành liên hệ mật thiết, phải xem xét yếu tố lịch sử hình thành trong mối tương quan với hiện tại.

Minh Hoàng
Minh Hoàng
Trả lời 4 năm trước

Câu 4

Ý nghĩa phương pháp luận

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, "... Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó". Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.

Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.

Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết: "... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng!' . V.I.Lênin cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hòi nguời ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó".

Hung Nguyen
Hung Nguyen
Trả lời 4 năm trước

tại sao ý thức mang tính chủ quan?

ý thức là sự phản ánh của bộ não thông qua các giác quan về thế giới bên ngoài. Bộ não và các giác quan của chúng ta giống như một cái gương phản chiếu thế giới bên ngoài, hình ảnh của thế giới trong gương chính là ý thức. Vấn đề là cái gương đó có thể lồi, có thể lõm, có mờ, có thể, sáng... tùy thuộc vào mỗi cá nhân khác nhau. Đấy chính là tính chủ quan của ý thức.

Thế nhưng nên nhớ một điều là "cái gương" đó cho dù méo mó thế nào thì ảnh trong nó không phải là "ảo ảnh" mà là "ảnh thật". Và nó cũng là con đường duy nhất để chúng ta mỗi cá nhân có thể cảm nhận được thế giới xung quanh mình

Quang Bách
Quang Bách
Trả lời 4 năm trước

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:

Trong lịch sử, Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức có trước vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất

Chủ nghĩa duy vật siêu hình cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức và sinh ra ý thức. Tuy nhiên quan điểm của họ chưa thấy được vai trò, tính năng động sáng tạo của ý thức.

mối quan hệ vật chất và ý thức chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

Nguyễn Ngọc Ánh
Nguyễn Ngọc Ánh
Trả lời 4 năm trước

2. ý nghĩa phương pháp luận giữa vật chất và ý thức?cho ví dụ?

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức đồng thời vạch ra sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối lên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nói đến vai trò ý thức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý thức tự nó không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại cuộc sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ khâu:
- nhận thức cho được quy luật khách quan,
- biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan,
- phải có ý chí,
- phải có phương pháp để tổ chức hành động.
Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về:
- bản chất quy luật khách quan của đối tượng,
- trên cơ sở ấy con người xác đinh đúng đắn mục tiêu và đề ra phương pháp hoạt động phù hợp.
Con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hhiện tổ chức các hoạt động tực tiễn để thực hiện mục tiêu đề ra.
Ở đây ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng thế giới khách quan. Ngược lại nếu ý thức phản ánh sai sự thật khách quan thì sẽ dẫn đến sai lầm và thất bại.
Vì vậy phải phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan.
Tuy nhiên, cơ sở để phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan của ý thức là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của thế giới vật chất. Nếu như thế giới vật chất và những quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì tôi hay bạn, chúng ta sẽ rơi vào không tưởng và duy ý chí.

Duy Thái Phan Nguyễn
Duy Thái Phan Nguyễn
Trả lời 4 năm trước

Mình nghĩ bạn có thể phân tích ngược lại từ nguồn gốc củaý thức, rồi sauđó cứ từđó triển khai raấy

Thảo Nguyên
Thảo Nguyên
Trả lời 4 năm trước

Chuẩn rồi, hôm bữa mình thi, cũng vào câu ntn, cô chữa là nên hiểu từ bản chất, nguồn gốc, cho mn tham khảo nèk

♡ nguồn gốc của ý thức:
*Mặt tự nhiên
- ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý thức.
- nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Vd: một đứa trẻ ở vùng núi, chưa bao giờ đến biển, không xem tivi thì chúng không thể tưởng tượng được sóng biển như thế nào.
Ngược lại, một đứa trẻ đồng bằng, chưa bao giờ nhìn thấy gấu, báo. Bắt chúng miêu tả chúng sẽ không làm được.
*Mặt xã hội.
“Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người, từ tâm lý động vật thành ý thức”— Engels
- Lao động
Là hoạt động đặc thù của con người, là hoạt động bản chất người. Đó là hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục đích. Lao động đem lại cho con người dáng đi thẳng đứng, giải phóng hai tay. Điều này cùng với chế độ ăn có thịt đã thực sự có ý nghĩa quyết định đối với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người, từ tâm lý động vật thành ý thức.
“Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người”— Engels
Nhờ có lao động, bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người ngày càng cao. Cũng là lao động ngay từ đầu đã liên kết con người lại với nhau trong mối liên hệ tất yếu, khách quan.
- Ngôn ngữ:
Là phương tiện để con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
Vd: - đứa trẻ khi sinh ra chỉ là một tờ giấy trắng, ta vừa chỉ vật vừa dạy nói thì tư duy nó mới có thể phát triển, không thể tự nhiên mà sinh ra đã có.
- một đứa trẻ thiểu năng sẽ không có tiếng nói.

Câu 5. Anh (chị) hãy phân tích bản chất của ý thức? lấy ví dụ để làm sáng tỏ tính
năng động sáng tạo của ý thức?
☆☆☆☆
♡ bản chất:
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
- tính chất năng động, sáng tạo: thể hiện ở khả năng hoạt động tâm sinh lí của con người trong việc định hướng tiếp nhận, lưu trữ thông tin và trên cơ sở những thông tin đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa thông tin được tiếp nhận. Vd: trước khi lên tàu vũ trụ bay lên mặt trăng, con người đã có rất nhiều thông tin về mặt trăng. Sau khi đặt chân lên mặt trăng, con người sẽ khám phá những thông tin mới và loại bỏ những thông tin sai lầm về mặt trăng. Nó còn được thể hiện trong quá trình con người tạo ra những ý tưởng, giả thuyết, huyền thoại,... trong đời sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các mô hình tư tưởng, tri thức trong hoạt động của con người. Vd: nhà văn viết một câu truyện, trong nội dung chính, tác giả có thể sáng tạo ra nhiều tình tiết khác nhau trong câu chuyện.
– Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà nó đã được cải biến thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu cầu,...) của con người
– ý thức là một hiện tượng xã hội mang bản chất xã hội: ý thức ra đời và tồn tại gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của quy luật tự nhiên, xã hội và được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
.Vd: trước khi lên tàu vũ trụ bay lên mặt trăng, con người đã có rất nhiều thông tin về mặt trăng. Sau khi đặt chân lên mặt trăng, con người sẽ khám phá những thông tin mới và loại bỏ những thông tin sai lầm về mặt trăng.

Trình Vũ Lục
Trình Vũ Lục
Trả lời 4 năm trước

Câu 1 theo mình nghĩ là ntn làđc nè:

Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin, ý thức là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ ócngười, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ không có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Nên ý thức mang tính chủ quan

VD: thời xa xưa, trái đất tròn hay vuông còn tùy vào nhận thức của mọi người

20;

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tế khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan. Không được lấy ý muốn chủ quan thay cho điều kiện khách quan.

Thứ hai, phải thấy được vai trò tích cực của ý thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các điều kiện vật chất hiện có. Nghĩa là, phải biết động viên tinh thần, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của ý thức, tinh thần vượt khó vươn lên, v.v.

Thứ ba, tránh không rơi vào “chủ nghĩa khách quan” tức là tuyệt đối hoá điều kiện vật chất, ỷ lại, trông chờ vào điều kiện vật chất kiểu “Đại Lãn chờ sung”, không chịu cố gắng, không tích cực, chủ động vượt khó, vươn lên.

Thứ tư, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức, của ý chí, cho rằng, ý chí, ý thức nói chung có thể thay được điều kiện khách quan, quyết định điều kiện khách quan.

Toàn bộ ý nghĩa phương pháp này cũng là những yêu cầu của nguyên tắc (quan điểm) khách quan. Vì vậy, chúng ta thấy, chính quan điểm của triết học Mác-Lênin về vật chất, ý thức về quan hệ giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) khách quan.

VD: có câu Có thực mới vực được đạo

Thành Nam
Thành Nam
Trả lời 4 năm trước

Câu 4: Ý nghĩa phương pháp luận

Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, "... Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động"..., trong sự biển đổi của nó". Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.

Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hòi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp với tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.

Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết: "... Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng!' . V.I.Lênin cũng cho rằng: "Phép biện chứng đòi hòi nguời ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó".