Cho mình hỏi ai biết làm bài văn này send qua giùm mình với

Theo xuân diệu tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước do đó dọn đường cho yên giang son tổ quốc hãy làm rỏ nhan đề trên :::::::: ai biết send qua cho mình với nha >>>> cảm ơn trước

Lai Hoang Doanh
Lai Hoang Doanh
Trả lời 13 năm trước

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm
ời đề tự “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, là cảm hứng chủ đạo của Huy Cận trong bài thơ “Tràng giang” đã khắc chạm vào thời gian và hồn người hơn nửa thế kỷ qua. “Tràng giang” là bài thơ kiệt tác trong tập thơ “Lửa thiêng” xuất bản năm 1940. Theo tác giả cho biết, vào một buỏi chiều thu năm 1939, khi còn là sinh viên trường Đại học Canh nông, Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm, ngắm sông Hồng mênh mông lòng dào dạt xúc động mà viết bài thơ này. Đó là những cảm nhận về tràng giang và một nỗi buồn man mác dâng lên lúc hoàng hôn khi nhà thơ lặng ngắm cảnh: “Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Khổ thơ đầu nói về “sóng gợn”, con thuyền và cành củi khô trôi trên dòng sông:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”.
Tràng giang – sông dài và lớn, như Hoàng Hà, Trường Giang… ở đây là dòng sông Hồng Hà thân yêu, dòng sông “đỏ nặng phù sa”. Sóng gợn lăn tăn, lớp lớp “buồn điệp điệp”, như vỗ vào, thấm sâu vào lòng người bao ám ảnh. Con thuyền nhỏ bé, trôi xuôi dòng, buông mái chèo “nước song song”. Cặp từ láy: “điệp điệp”, “song song” gợi tả một nơi buồn thấm thía, xa vắng và mơ hồ. hình ảnh cành củi khô vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. “Củi một cành khô” nhỏ bé tầm thường, từ rừng xa xôi trôi về đã được đem vào thơ, tạo nên “cái ý vị mới mẻ” của “Thơ mới”. Nó biểu tượng cho một kiếp ngời phù du, bé nhỏ trôi nổi trên dòng đời vô định. Buồn thương thế, biết đi đâu, về đâu?
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành kho lạc mấy dong”
Phép đối được sử dụng sáng tạo, chỉ đối ý, đối hình mà vần thơ vãn cân xứng, hài hoà. Con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng tràng gian. Huy Cận nói đến nhiều “vạn cổ sầu”, “buồn thiên thu”, ở đây ông lại viết “sầu trăm ngả”. Cả cõi dương và cõi âm? “Sầu trăm ngả” như tỏa rộng và phủ lên những kiếp người đau thương. Các số từ trong 3 vần thơ “sầu trăm ngả”, “củi một cành khô”, “lạc mấy dòng” đã làm thấu cái ám ảnh về kiếp người nhỏ bé, hữu hạn, còn sự đau khổ, sầu thương thi to lớn, vô hạn.
Nỗi buồn vô hạn ấy lại được miêu tả qua một không gian bao la. Cái bé nhỏ tương phản với cái mênh mông, vô cùng. Cồn thì nhỏ bé thưa thớt, buồn bã: “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Vần lưng “nhỏ - nhỏ”, kết hợp với láy âm “lơ thơ” và “đìu hiu”, âm hưởng câu thơ như trĩu lòng người về mộtnỗi buồn hiu hắt cô quạnh. Nghệ thuật sử dụng từ láy tài ba, gợi lên màu sắc cổ kính, dẫn hồn người đọc về với cổ thi: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo – Bên Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”(Chinh phụ ngâm). “Lơ thơ tơ liễu buông mành…”(“Truyện Kiều”).
Chợ chiều vốn đã buồn xao xác, vãn chợ chiều thì cái buồn xao xác xa vắng lại được nhân lên nhiều lần. Thế mà giờ đây cái âm thanh xao xác “vãn chợ chiều” từ một làng xa cũng không còn nữa. Từ “đâu” biểu lộ cái ngơ ngác của thi nhân với một nỗi buồn lẻ loi cô quạnh chứa chất trong lòng:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Bầu trời và lòng sông là không gian hai chiều. Trời cao thăm thẳm in xuống lòng sông. Người ta thường nói “cao chót vót”, “sâu thăm thẳm” nhưng Huy Cận lại viết “sâu chót vót” để làm nổi bật hai tiểu đối: “nắng xuống” và “trời lên” kia, cái bao la, mênh mông đều rợn ngợp. Dòng sông thì “dài”, bầu trời thì “rộng”, và bến đò thì “cô liêu” xa vắng:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Song dài, trời rộng, bến cô liêu”
“Tràng giang” là thi phẩm đại diện sáng chói, lung linh nhất của “lửa thiêng”. Nói đến “Tràng giang” là nói đến “Lửa thiêng”. Nói đến “Lửa thiêng” là nói đến nỗi buồn mênh mang, bao trùm không gian và thời gian, dường như ngâm chứa chất “cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế!”(Xuân Diệu).
Câu hát “bèo dạt mây trôi” trong dân ca Quan Họ từng gợi lên trong hồn ta nhiều cảm xúc mơ hồ. Khổ thứ ba, huy Cận lấy cánh bèo trôi dạt trên dòng tràng giang làm biểu tượng cho sự hợp tan chia lìa trên dòng đời cua rnhững kiếp người truân chuyên lưu lạc:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Giữa cái bao la trời đất, sông nước hầu như không có một bóng dáng con người. Câu thơ phủ định bằng điệp từ “không” liên tiếp “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”, chỉ có màu “vàng” của bãi tiếp nối với màu “xanh” của bờ vô tận. Cái buồn bà cô đơn của tâm trạng được diễn tả trong một không gian “mênh mông” và “lặng lẽ”.
Khổ thơ cuối nói về khoảnh khắc hoàng hôn. Hoàng hôn trong thơ cổ gắn liền với tình quê, cố hương:
“.. Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
(“Qua Đèo Ngang”)
Thôi Hiệu, nhà thơ lỗi lạc đời Đường, đứng trên lầu Hoàng Hạc nhìn khói sóng phủ mờ trên sông Hán Dương buổi hoàng hôn mà lòng thổn thức:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
(Tản Đà dịch)
Huy Cận lựa chọn một số thi liệu đầy chất thơ để diễn tả một tình quê: một cánh chim chiều, lớp lớp núi mây bạc. Không có khói sóng mà vẫn thương nhớ quê nhà da diết:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa,
Lòng quê dợn dợn vời non nước,
Không khói hoàng hon cũng nhớ nhà”.
Câu thơ nên hoạ, đầy hình tượng và dạt dào cảm xúc. Hồn Đường như thấm vào câu chữ. Ai đã từng xa quê, trong khoảnh khác hoàng hôn mới thấy hết cái hay (đẹp mà buồn) trong những bài thơ nói về tình quê. Lòng quê: “Song sa vò võ phương trời – Nay hoàng hôn đãlại maii hôn hoàng”(Truyện Kiều)… “kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ - Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn” (“Chiều hôm nhớ nhà”) - Từ cảm nhận ấy, ta như bâng khuâng nhập hồn mình vào “Tràng giang”, lặng lẽ trầm ngâm nhìn theo “vời con nước” mà “nhớ nhà”, nhớ quê hương. Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”. Rõ ràng tình quê trong Huy Cận không cần có khói sóng mà lòng quê vẫn “dờn dợn”, vẫn “nhớ nhà”, nhớ trong Huy Cận cháy bỏng và da diết vô cùng. Nói rằng thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn người để vươn tới cái cao cả. Đọc “Tràng giang” ta cảm nhận sâu thêm chân lý nghệ thuật ấy.
“Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó là ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Một nỗi buồn thấm thía được diễn tả lớp lớp tầng tầng qua những vân thơ mỹ lệ, hàm súc. “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu Giang sơn Tổ quốc” như Xuân Diệu đã nói. Có “Tràng giang”

fjghbfg
fjghbfg
Trả lời 13 năm trước

Gợi ý:

1. Vẻ đẹp cổ điển được:

- Đề tài và điểm nhìn cảnh vật: tả buổi chiều hoàng hôn trên sông dài rộng mênh mông, những gian bao quát toàn cảnh vật.

- Búp pháp miêu tả: lấy điểm tả diện: qua cảnh củi khô, bên cô liêu, cánh chim nhỏ để tả không gian bao la, hoang vắng.

- Cảm xúc: con người như thăng hoa, lẫn vào cảnh vật, vào không gian, thời gian. Mượn cảnh gợi tình, cảnh sông nước Tràng Giang của Huy Cận gợi nhớ đến cảnh sông nước Tràng Giang của thơ Đường trong Thơ Đỗ Phủ, Thôi Hiệu.

Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng nhuần nhuyễn tạo ra nhịp điệu thơ như trong thơ xưa.

2. Vẻ đẹp hiện đại:

Tuy vậy, Tràng giang là bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới giai đoạn 1932 - 1945.

- Bút pháp hiện đại thể hiện với những chi tiết, hình ảnh thơ cụ thể, sống sít đời thường, chân thực với cành củi khô, cồn cát, cánh bèo, cánh chim nhỏ. Nói chung là quá nhiều hình ảnh, chi tiết được đưa vào bài thơ dường như ngẫu nhiên, tình cờ, không theo trình tự không gian, thời gian.

- Tâm trạng thơ, là một cái tôi của thế hệ thanh niên sống trên đất nước bị thực dân Pháp thống trị, một cái tôi cô đơn, lạc lõng, vô định giữa không gian bao la, muốn hoà nhập nhưng bất lực, bế tắc.

- Càng nhớ nhà, nhớ quê hương vì vậy sâu nặng, phát xuất tự đáy lòng nhà thơ chứ không cần ngoại cảnh như trong thơ xưa.

3. Bài làm tham khảo

Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận viết nhiều về thiên nhiên, vũ trụ - Đây là một hồn thơ buồn, nỗi buồn của một con người gắn bó với đất nước, quê hương, nhưng cô đơn bất lực, thường tìm đến những cảnh mênh mông bát ngát, hoang vắng lúc chiều tà và đem đối lập nó với những sự vật gợi lên hình ảnh những thân phận nhỏ nhoi, tội nghiệp, bơ vơ trong tàn tạ và chia lìa. Bài thơ Tràng giang là một trường hợp tiêu biểu cho những đặc điểm phong cách vừa cổ điển vừa hiện đại.

1/

Tràng giang nghĩa là sông dài. Nhưng hai chữ nôm na “sông dài” không có được sắc thái trừu tượng và cổ xưa của hai âm Hán Việt “tràng giang”. Với hai âm Hán Việt, con sông trong thơ tự nhiên trở thành dài hơn, trong tâm tưởng người đọc, rộng hơn, xa hơn, vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng người đọc. Một con sông dường như của một thuở xa xưa nào đã từng chảy qua hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hóa và in bóng trong hàng nghìn áng cổ thi. Cái cảm giác Tràng giang ấy lại được tô đậm thêm bởi lời thơ đề là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” (Nhớ hờ - Lửa thiêng)

2/ Khổ một:

Ở hai câu đầu, cảnh vật thực ra tự nó không có gì đáng buồn. Nhưng lòng đã buồn thì tự nhiên vẫn thấy buồn. Đây là cái buồn tự trong lòng lan tỏa ra theo những gợn sóng nhỏ nhấp nhô “điệp điệp” với nhau trên mặt nước mông mênh. Cũng nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái lặng lẽ để lại sau mình những rẽ nước song song.

Ở hai câu sau, nỗi buồn đã tìm được cách thể hiện sâu sắc hơn trong nỗi buồn của cảnh: ấy là sự chia lìa của “thuyền về nước lại” và nhất là cảnh ngộ của một cành củi lìa rừng không biết trôi về đâu giữa bao dòng xuôi ngược. Thử tưởng tượng: một cành củi khô gầy guộc chìm nổi giữa bát ngát tràng giang... Buồn biết mấy!

3/Khổ hai:

Bức tranh vẽ thêm đất thêm người. Cái buồn ở đây gợi lên ở cái tiếng xào xạc chợ chiều đã vãn từ một làng xa nơi một cồn cát heo hút nào vẳng lại. Có thoáng hơi tiếng của con người đấy, nhưng mơ hồ và chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, chia lìa. Hai câu cuối của khổ thơ đột ngột đẩy cao và mở rộng không gian của cảnh thơ thêm để càng làm cho cái bến sông vắng kia trở thành cô liêu hơn:

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

4/Khổ ba:

Cảnh mênh mông buồn vắng càng được nhấn mạnh hơn bằng hai lần phủ định:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...

Không có một con đò, không có một cây cầu, nghĩa là hoàn toàn không bóng người hay một cái gì gợi đến tình người, lòng người muốn qua lại gặp gỡ nhau nơi sông nước.

Chỉ có những cánh bèo đang trôi dạt về đâu: lại thêm một hình ảnh của cô đơn, của tan tác, chia lìa.

5/Khổ bốn:

Chỉ có một cánh chim xuất hiện trên cảnh thơ. Xưa nay thơ ca nói về cảnh hoàng hôn thường vẫn tô điểm thêm một cánh chim trên nền trời:

Chim hôm thoi thóp về rừng
(Nguyễn Du)

Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.
(Bà Huyện Thanh Quan)

Chim mỏi về rừng tìm chốn trú
(Hồ Chí Minh)

Bài thơ Huy Cận cũng có một cánh chim chiều nhưng đúng là một cánh chim chiều trong “thơ mới”, nên nó nhỏ nhoi hơn, cô đơn hơn. Nó chỉ là một cánh chim nhỏ (chim nghiêng cánh nhỏ) trên một nền trời “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Và cánh chim nhỏ đang sa xuống phía chân trời xa như một tia nắng chiều rớt xuống.

Người ta vẫn nói đến ý vị cổ điển của bài thơ. Nó thể hiện ở hình ảnh nhà thơ một mình trước vũ trụ để cảm nhận cái vĩnh viễn, cái vô cùng của không gian, thời gian đối với kiếp người. Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm thêm bằng một tứ thơ Đường.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Tác giả Tràng giang tuy nói “không khói hoàng hôn” nhưng chính là đã bằng cách ấy đưa thêm “khói hoàng hôn Thôi Hiệu” vào trong bài thơ của mình để làm giàu thêm cái buồn và nỗi nhớ của người lữ thứ trước cảnh tràng giang.

6/

Mỗi người Việt Nam đọc Tràng giang đều liên tưởng đến một cảnh sông nước nào mình đã đi qua. Có một cái gì rất quen thuộc ở hình ảnh một cành củi khô hay những cánh bèo chìm nổi trên sóng nước mênh mông, ở hình ảnh những cồn cát, làng mạc ven sông, ở cảnh chợ chiều xào xạc, ở một cánh chim chiều.

Một nhà cách mạng hoạt động bí mật thời Pháp thuộc mỗi lần qua sông Hồng lại nhớ đến bài Tràng giang. Tình yêu đất nước quê hương là nội dung cảm động nhất của bài thơ.

Còn “cái tôi Thơ mới”, tất nhiên là phải buồn. Thơ Huy Cận lại càng buồn. Buồn thì cảnh không thể vui. Huống chi lại gặp cảnh buồn. Nhưng trong nỗi cô đơn của nhà thơ, ta cảm thấy một niềm khát khao được gần gũi,hòa hợp, cảm thông giữa người với người trong tình đất nước , tình nhân loại - niềm khát khao có một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu thân mật nối liền hai bờ sông nước Tràng giang.