Mô tả sản phẩm: Chevrolet Spark LS 1.2 AT 2013
Đánh giá nhận xét Chevrolet Spark LS 2013
Spark LS là một chiếc xe nhỏ giá rẻ đến từ Chevrolet - một nhà sản xuất vốn không có truyền thống sản xuất những chiếc xe kiểu này. Vậy, liệu Chevrolet Spark có thể đánh bại được những đối thủ khác?
Chevrolet sử dụng động cơ của Hàn Quốc và có mầu sắc vui tươi như: ớt jalapeno ( vàng ngả xanh) , chanh ( vàng nhạt ) hoặc hồng phớt. Kiểu dáng của nó vẫn là contra-500, với dáng mập lùn giống như thiết kế trên các dòng xe mới khác của Chevrolet. Kích thước của chiếc Spark là 144.7x62.9x61.0 và thuộc chuẩn A. Chiếc Spark ngắn hơn chiếc Chevrolet Sonic chuẩn B 14 inh và hẹp hơn 5 inh. Chiếc xe có thiết kế khá cân đối và giản dị tuy nhiên động cơ có công suất chỉ dưới 100 mã lực.
Nội thất của chiếc Spark đã vượt quá sự mong đợi của chúng tôi. Bề mặt được tráng nhựa cứng nhưng rất cứng cáp và không mang lại cảm giác rẻ tiền ( chuyển từ chiếc Spark sang chiếc Sonic bạn sẽ thấy chiếc Sonic rất sang trọng và lịch sự). Trang thiết bị được số hóa một nửa nhưng không thực sự hấp dẫn. Rõ ràng với cái giá chỉ $12,995, những nhà thiết kế của GM không có nhiều lựa chọn. Nhìn chung hệ thống điều khiển của Spark LS khá đơn giản và dễ sử dụng.
Điểm mới nhất trong chiếc Chevrolet nhỏ nhất này là 4 người lớn có thể ngồi khá thoải mái do kích thước giữa 2 bánh xe lên tới 93.5 inh. Hệ thống máy tự động được thiết kế lại giúp mở rộng khoảng trống thêm cho 0.8 người ( 0.2 sau bánh lái và 0.6 sau ghế hành khách) mà không ảnh hưởng đến kích thước của một chiếc xe siêu nhỏ (120.1 x 66.1 x 59.1 inches). Chiếc Spark có thiết kế vị trí ngồi cũng như bánh lái cao như thường lệ. Chiếc Ford Focus, mẫu xe có kích thước lớn hơn 2 chuẩn có chỗ để chân ở hàng ghế sau ít hơn 2 inh. Ngay cả mẫu Sonic cũng không có quá nhiều khoảng trống. Mẫu Cruze chuẩn C cũng chỉ dài hơn vài phần mười inh. Ghế ngồi không đủ thoải mái cho những chuyến đi dài nhưng chắc chắn thừa đủ khả năng khi bạn chỉ di chuyển trong thị trấn. Với việc chiếc Spark gần như không có phần nhô ra phía sau, việc chứa đồ sẽ gặp khó khăn. Phần không gian ở ghế sau chỉ vào khoảng 11.4 cube và đủ để chứa vài túi hàng hóa. Tuy nhiên bạn có thể gập ghế sau để mở rộng không gian. Dung tích của nó khi đó thậm chí còn lớn hơn chiếc Sonic ( 31.2 so với 30.7 )
Điểm thiếu thân thiện nhất trong thiết kế của Spark đến từ hình dáng của nó ( hoặc có lẽ bởi mong muốn tạo ra một chiếc xe an toàn như một chiếc boong). Những chiếc đai an toàn dốc xuống gần như chạm đến gương và không có đủ khoảng trống để lái xe đến Buck Roger với các trụ đỡ khung cửa A, do đó tầm nhìn là khá tốt. Tuy nhiên giống như chiếc Toyota Yaris kính chắn gió cao hơn khá nhiều so với kính trước và tôi cảm thấy cần phải nâng chỗ ngồi lên đôi chút để có thể nhìn rõ. Sau khi nâng xong, bạn có thể chạm vào phần trên của kính chắn gió.
Chiếc Mazda2 có động cơ dung tích 1.5l 100 mã lực nhưng cực kì kém. Do đó bạn sẽ cảm thấy thật sự thất vọng khi chiếc Spark chỉ được trang bị động cơ 1.2l 84 mã lực mà trọng lượng của nó cũng ngang ngửa chiếc Mazda, khoảng 2300 pound. Với bộ truyền động 5 cấp, chiếc Chevrolet khá ổn khi đi trên đường cao tốc, nhưng nó không cho cảm giác tốc độ. Tuy nhiên với một vài tinh chỉnh và nén khí, chiếc Chevrolet cho ra những âm thanh tốc độ và phù hợp trong khi Mazda vẫn uể oải và lờ đờ. Tôi đã hồi tưởng đến những chiếc Civic 1980s mà tôi khá ưa thích. Việc chuyển số hơi lâu nhưng rất mượt mà. GM đã kém hơn trong khoản này.
Giống như các mẫu xe nhỏ khác, chiếc Spark đi được khoảng 40 dặm với mỗi gallon nhiên liệu. Đánh giá EPA của nó với đường cao tốc là 38 dặm/gallon, bằng với mẫu Nissan Altima chuẩn D và hơn nhiều mọi mẫu xe chuẩn B và C. Rõ ràng trọng lượng nhỏ cùng thiết kế mập lùn đã cải thiện được yếu tố khí động học của chiếc xe. Đánh giá EPA với đường thành phố ở mức 32 dặm/gallon thậm chí còn ấn tượng hơn.
GM có truyền thống biến hệ thống điều khiển của những chiếc xe cơ nhỏ trở nên giống với những chiếc cỡ lớn. Spark cũng không phải ngoại lệ, nó ít rung hơn mẫu Fort Two hay Iq nhưng cũng không nhanh nhẹn như thông số kĩ thuật của nó. Chiếc xe bắt đầu hơi ồn khi tăng tốc lên mức 50mph, tuy nhiên khi đi trong thành thị khá mượt mà và yên tĩnh.
Mức giá $12,995 của Spark LS không phải là rẻ nhất. Huyndai và Nissan đã có những mẫu xe giá chỉ $9,995 trong vài năm trở lại đây tuy nhiên mức giá này không bao gồm đế sạc, điều hóa không khí hay cửa tự động. Trong khi đó, giá của Spark đã bao gồm tất cả. Vớ $1800 bạn sẽ có thêm Bluetooth và một số thứ khác. $1500 cho LT. $925 cho hệ thống truyền động 4 số tự động. Theo đánh giá của công cụ so sánh TrueDelta, những phụ kiện này có giá trị hơn những trang bị của chiếc Nissan Versa 1.6S khoảng $2800, tính cả việc chiếc Nissan rẻ hơn $225 thì chiếc Spark vẫn có giá trị hơn khoảng $2600. Những chiếc xe chuẩn B khác, bao gồm cả Sonic cũng cần khoảng hơn $2000 để có thể có những trang bị như trên chiếc Spark. Có thể coi Spark mà mẫu xe rẻ nhất trong các mẫu xe đầy đủ tiện nghi.
Tóm lại, nếu bạn là một người thích những chuyến đi xa trên đường cao tốc, hãy loại bỏ Chevrolet Spark. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ cần một chiếc xe chắc chắn, kinh tế, đầy đủ thiết bị hoặc đơn giản chỉ là thích những màu sắc như hồng, xanh vàng hoặc xám, hãy để ý đến chiếc Spark LS.