Nêu suy nghĩ của anh chị sau khi đọc xong bai thơ THƯƠNG VỢ của TRẦN TẾ XƯƠNG?

HELP ME ! HELP ME ! EM DANG RAT CAN GAP MONG ANH CHI HAY GIUP DO EM VOI

 

fjghbfg
fjghbfg
Trả lời 12 năm trước

Bạn tham khảo vài này nhé:

I/Mở bài

- Tú Xương là nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX đồng thời cũng là tác giả của những vần thơ trữ tình đằm thắm , thiết tha .

- “Thương vợ” là một sáng tác tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương.

- Bài thơ đã khắc họa chân dung bà Tú vất vả đảm đang , giàu đức hi sinh và bộc lộ sự cảm thông , lòng yêu thương trân trọng ngợi ca người vợ của nhà thơ .

II/Thân bài

1/ Giới thiệu chung

- Trong thơ trung đại Việt Nam , các nhà thơ –nhà nho ít khi viết về cuộc sống tình cảm đời tư của mình , càng hiếm khi viết về người vợ . Thơ văn xưa coi trọng mục đích giáo huấn , dùng văn thơ để dạy đời , tỏ chí “văn dĩ tải đạo” , “thi dĩ ngôn chí” , với những đề tài phổ biến như : chí làm trai , nợ công danh , chí kinh bang tế thế hoặc những ưu tư về thời cuộc …

- Cũng trong xã hội xưa , vị thế cảu người phụ nữ ít được coi trọng , thậm chí còn bị coi rẻ .

- Tú Xương thì khác . Ông có nhiều bài thơ viết về vợ với những câu đầy thương mến , hóm hỉnh :

“Có một cô lái , nuôi một thầy đồ ,
Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ”

Đây là lời đáp của bà Tú khi được ông Tú hỏi về câu đối vừa mới viết :

“ Thưa rằng hay thực là hay ,
Không hay sao lại đỗ ngay tú tài ,
Xưa nay em vẫn chịu ngài”

- Trong một loạt bài thơ Tú Xương viết về vợ , Thương vợ được coi là tác phẩm tiêu biểu hơn cả . Bài thơ thể hiện cả hai mặt trong thơ Tú Xương , vừa ân tình vừa hóm hỉnh .

- Thương vợ được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng ngôn ngữ rất sinh đọng tự nhiên , mang đậm sắc thái dân gian , mang nét riêng độc đáo của thơ Tú Xương .

2/ Hai câu đề :

Quanh năm buôn bán ở mom sông ,
Nuôi đủ năm con với một chồng .

- Câu thơ mở đầu cất lên thật tự nhiên , dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình ảnh và công việc làm ăn của bà Tú .

- Từ “quanh năm” diễn tả sự triền miên về thời gian , từ ngày này sang ngày khác , tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy , bất kể mưa nắng , sớm trưa . Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó , bà Tú phải miệt mài với công việc “buôn bán” . Đó chỉ là kiểu buôn thúng bán mẹt , lời lãi chẳng được bao nhiêu ở chốn đầu sông cuối bãi .

- Hai từ “mom sông” cụ thể hóa không gian làm việc của vợ ông Tú , đó là nơi có thế đất hiểm trở , là doi đất nhô ra , ba bề là nước , khá chênh vênh nguy hiểm .

- Tú Xương đã quan sát , thấu hiểu cho nỗi vất vả của người vợ . Bởi vậy , ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông , thương mến sâu lắng . Với người vợ , một lời cảm thông như vậy của chồng cũng đủ để bù đắp cho bao nỗi đắng cay .

- Câu thơ thứ hai nêu lên căn nguyên sự vất vả của bà Tú . Bà phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề “ nuôi đủ năm con với một chồng” . Phải chăm sóc , nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi . Vậy mà bà còn phải nuôi thêm cả đức ông chồng . Ai cũng biết ông Tú tài cao nhưng phận thấp , thành ra ông chí khí uất . Tám lần ông đi thi chỉ mong bia đá bảng vàng nhưng rút cục đi không lại trở về không bởi thơ văn ông quá sắc sảo . Ông lại phải hằng ngày chứng kiến bao cảnh trái tai gai mắt “ con khinh bố”, “vợ chửi chồng” , bao điều lố lắng của xã hội dở ta dở tây đương thời . Tú Xương luôn day dứt về sự đời ô trọc . Cảnh chung niêm riêng khiến ông Tú rất kĩ tính , khó tính . Ấy vậy mà bà Tú vẫn “ nuôi đủ” . Công lao to lớn của bà nằm ở hai chữ “nuôi đủ” này . Bà Tú thắt lưng buộc bụng , tần tảo quanh năm không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về vật chất của một đại gia đình đông đảo mà bà còn phải sống lựa , chăm lo cho nhu cầu tinh thần vốn cao sang , tài tử của ông Tú . Sự đảm đang , khéo léo cảu bà thể hiện ở việc lựa ông Tú mà sống , khéo chiều sự khó tính khó nết của ông sao cho trong ấm ngoài êm .

- Hai câu thơ đầu đã đặc tả sự nhẫn nại , đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình . Qua đó nhà thơ gián tiếp bày tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình .

3/Hai câu thực

Lăn lội thân cò khi quãng vắng ,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông .

- Hai câu thơ đã cụ thể hơn tính chất , đặc thù công việc cảu bà Tú . Cách đảo ngữ “ lặn lội thân cò” , “ eo séo mặt nước” tô đậm chân dung cực nhọc , lam lũ , bươn chải của bà .

- Nhà thơ mượn hình ảnh ẩn dụ “thân cò” trong ca dao để ví von với thân phận , cuộc đời người vợ của mình . Con cò trong ca dao cực khổ , bất hạnh vô cùng :

“ Cái cò lặn lội bờ sông –Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
“Cái cò đi đón cơn mưa – Tối tưm mù mịt ai đưa cò về”
“ Cái cò mà đi ăn đêm – Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

- Nhà thơ đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận của những người lao động vất vả , lam lũ . Thân cò còn gợi dáng vẻ bé nhỏ , gầy gò , đáng thương tội nghiệp của người vợ ông Tú .

- Bà Tú bé nhỏ yếu ớt thế mà phải một mình thân gái dặm trường , đi làm qua những nơi “ quãng vắng” . Khi khỏe thì không sao nhưng khi trái gió rở trời , sảy chân bất kì thì không biết bà Tú sẽ gặp nguy hiểm chừng nào . Thế mới thâm thía câu ‘Buôn có bạn , bán có phường” . Câu thơ mang sức nặng của tấm lòng thương cảm mà ông Tú dành cho vợ .

- Bà Tú không chỉ dấn thân những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những chuyến đò đông , phải chịu những tiếng “eo sèo”, những lời qua tiếng lại cò kè mặc cả , có lườm nguyt chê bôi xô bồ . Đò đông gợi ra sự hiểm nguy , xô đẩy , chen chúc . vậy là “ cô gái nhà dòng” vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân quên đi lời mẹ dặn “ Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua” , phải lăn lôn giữa chốn đời phàm tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình .

- Hai câu thơ chú trọng vào việc miêu tả nỗi vất vả , sự đảm đang của bà Tú . Ẩn sau câu chữ vẫn là tấm lòng nhà thơ với cái nhìn thương cảm , ái ngại , biết ơn , trân trọng .

4/Hai câu luận

Một duyên hai nợ âu đành phận ,
Năm nắng mười mưa dám quản công .

- Hai câu luận là lời ông Tú nhập thân vào bà Tú để than thở giùm vợ . Nhà thơ dùng nghệ thuật đối , các khẩu ngữ và những thành ngữ dân gian “ một duyên hai nợ” , “năm nắng mười mưa” , “ âu đành” , “dám quản” để bộc lộ nỗi lòng ấy .

- Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian , duyên là đieuf tốt đẹp , là sự hòa hợp tự nhiên , còn nợ là gánh nặng , là trách nhiệm mà con người ta bị vướng mắc phải . Duyên là sự may mứn , còn nợ là sự rủi ro . Ở đây , khi lấy ông Tú , may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi , tức là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều .

- Dù vậy , bà coi đó là cái phận , cái định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình . Vì thế , bà cam chịu , chấp nhận , không kêu ca mà âm thầm chịu đựng . Bà sẵn sàng vượt qua “ năm nắng mười mưa” – những nỗi khó khăn tăng cấp chồng chất , bà dám “ quản công” , tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình .

- Hai câu thơ như một tiếng thở dài của bà Tú . Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng , vượt lên . Phảo chăng đó cũng chính là đức hi sinh – vẻ dẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam ?

5/Hai câu kết .

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

- Hai câu thơ vẫn là lời Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi , để rủa chính thói đời bạc bẽo , trách cứ sự vô tích sự của mình .

- Thói đời là những nếp cư xử ,hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải . Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ , là thói vô tâm cảu các ông chồng với vợ . Thói xấu ấy cũng đã thấm vào người ông Tú , khiến ông ăn ở bạc với vợ , sống thiếu trách nhiệm , đổ mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ . Như vậy , ông Tú không chỉ chửi chung thói đời mà còn chửi chính bản thân mình .

- Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của Tú Xương . Nhà thơ dùng lời ăn tiếng mói của dan gian “ cha mẹ” – một cách chửi có gọng điệu chanh chua nanh nọc , gay gắt , quyết liệt , lôi cả gốc rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi . Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương .

- Câu thơ cuối cùng là một lời rủa . Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ hững thì còn tệ hơn cả không có chồng . Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng mà sống vô tích sự , vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi .

- Hai câu thơ cuối là một cách chuộc lỗi đặc biệt của nhà thơ với vợ . Lời thơ giản dị pha lẫn nụ cười trào phúng mà vẫn chân chất , thấm thía tấm lòng thương vợ đáng quy trọng .

III/ Kết bài .

- Thương vợ là bài thơ ngắn gọn , súc tích , có ngôn ngữ giản dị , giọng thp ân tình , hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú – người vợ tảo tần đảm đang , chịu thương chịu khó , giàu dức hi sinh vì chồng con , mang vẻ đẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam .

- Tác phẩm cũng bộc lộ sự cảm thông , trân trọng biết người vợ sâu sắc của nhà thơ Tú Xương .

- Đây là bài thơ tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương .

rtỵky
rtỵky
Trả lời 12 năm trước

Nhan đềThương vợkhông biết có phải do tác giả hay người đời sau đặt tên cho bài thơ? Thế nhưng có một điều chắc chắn rằng bàiThương vợđược xem là một trong những bài xuất sắc nhất trong mảng thơ viết về người vợ của Tú Xương.

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khóc vợ khi bạn trăm năm của mình qua đời. Bà Tú Xương dù có phải chịu nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có một niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được, đó là bà bước vào địa hạt thi ca của ông Tú: Bà bước vào thơ ca của ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ - bà Tú.

Câu thơ mở đầu nói hoàn cản làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ gợi lên qua cách nói thời gian, địa điểm:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù nắng hay mưa, dù ấm hay lạnh. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Còn địa điểm và Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô ra ngoài sông ấy chính là ngọn sóng, trắc trở, bà Tú phải vật lộn. Hình ảnh và Tú tần tảo tất bật, ngược xuôi.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng.
Hình ảnh con cò trong ca dao đã tội nghiệp đến hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Bởi lẽ con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian mà còn trong cái rợn ngợp của thời gian, không gian heo hút. Khi quãng vắng diễn tả được cả không gian, thời gian chứa đầy âu lo nguy hiểm. Cách đảo ngữ - đưa từlặn lộilên đầu câu (so với câu ca dao)Con cò lặn lội bờ sông, cách thay từcon còbằngthân còlàm tăng thêm nỗi vất vả gian truân của bà Tú, đó còn là sự sáng tạo nghệ thuật thi ca của Tú Xương.

Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Nhưng lại là tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả đơn chiếc, lại thêm sự buôn bả trong cảnh chen chúc làm ăn. Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương với tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân càng làm ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang, tháo vát.
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Chúng ta chú ý các từ ngữ: Nuôi đủ, năm, một. Như vậy bà Tú nuôi đủ sáu người. Chúng ta thấy thấp thoáng nụ cười tự hào của nhà thơ qua cách tính đếm của ông:Năm con với một chồng. Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chứa chất bao tình ý. Từđủtrongnuôi đủvừa nói về số lượng, vừa nói về chất lượng.

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hi sinh rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công
Nắng mưa chỉ sự vất vả, năm, mười là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo trong câu thơnăm nắng mười mưa. Vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.


Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai.

Một duyên hai nợ âu đành phận.
Tú Xương tự coi mình là cái nợ đời mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông đối với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án.
Có chồng hờ hững cũng như không.

Ở cái thời mà xã hội phong kiến đối xử với người phụ nữ theo kiểuxuất giá tòng phu, phu xướng, phụ tuỳthế mà có một nhà nho – Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự nhận mình làquan ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế chẳng dũng khí lắm sao. Một nhân cách như thế chẳng đẹp làm sao.

Thương vợ- nhan đề chưa nói hết được cái sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương bởi lẽ nhà thơ không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án thói đời mà còn tự trách mình. Nhà thơ dám tự nhận khuyết điểm, càng thấy khiếm khuyết của mình càng thương vợ, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu quý trọng bà Tú của ông có phần mới mẻ trong thời kì văn học trung đại. Nó là những vần thơ, hình ảnh gần gũi với mọi người, có gốc rễ từ tâm hồn dân tộc.

Mr việt
Mr việt
Trả lời 12 năm trước

Y cua co em muon nhan manh la VE DEP CUA NGUOI PHU NU XUA VA NGUOI PHU NU HIEN NAY !

va ko phai di phan tich het bai tho nay a ? chi? la` neu len dc ve dep cua nguoi phu nu xua thoi a.

Nguyen lien
Nguyen lien
Trả lời 8 năm trước
Từ tình cảm,thái độ của trần tế sương đối với vợ qua bài thơ thương vợ. Em hay bay to suy nghĩ của em về vai trò,trách nhiệm tình cảm của người nam giới trong gia đình và đối với vợ như thế nào?
Nguyen lien
Nguyen lien
Trả lời 8 năm trước
Có ai biết câu trả lời này không? Làm giùm mình với
Hung Thinh
Hung Thinh
Trả lời 7 năm trước

8 Lý do nên chọn căn hộ Sài Gòn Mia

  1. Chủ đầu tư dự án Saigon Mia là một tập đoàn lớn - uy tín

Chủ Đầu tư dự án Căn hộ Saigon Mia là Hung Thinh Corp-một tập đoàn bất động sản Uy tín, đứng top 3 chủ Đầu Tư Bất Động sản lớn nhất và uy tín nhất hiện nay tại Thành Phố Hồ Chí Minh, đã đạt được nhiều giải thưởng danh giá trong lĩnh vực BĐS như: Chứng nhận doanh nghiệp đạt chuẩn chất lượng QAS 2016 (Quy Trình Quản Lý Chất Lượng Quốc Tế-QUALITY ASSURANCE SYSTEM), Chứng Chỉ Trusted Green – Chỉ số tín nhiệm xanh 2016, Thương Hiệu Bất Động Sản được yêu thích nhất, Nhà Đầu Tư Bất Động Sản Xuất Sắc 2015, Top 10 nhà đầu tư hàng đầu 2015, Top 200 giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2015, .....

2. Vị Trí dự án Sài Gòn Mia vô cùng trắc địa-thuận lợi cho mội điểm đến

Căn hộ Sài Gòn Mia tọa lạc tại mặt tiền đường 9A, Khu dân cư Trung Sơn là nơi hội tụ, giao nhau của nhiều quận huyện phía Nam TP.HCM. Từ SAI GON MIA chỉ mất 5 phút đi đến Quận 4, 6 phút đi đến Quận 5, 10 phút đến Chợ Bến Thành ở trung tâm Quận 1.

Phía Đông: giáp rạch Ông Lớn với bên kia rạch là Quận 7 gồm các khu dân cư kiểu mẫu và đô thị hiện đại, kết nối được nhanh chóng bằng Cầu Ông Lớn trên đường Nguyễn Văn Linh cũng như nhờ Cầu Him Lam nối vào đường Nguyễn Thị Thập.

Phía Bắc: kết nối đến trung tâm Quận 1 thông qua đường Nguyễn Văn Cừ nối dài và cầu Nguyễn Văn Cừ, từ đó dễ dàng di chuyển đến các khu vực trung tâm thành phố.

Phía Tây: giáp khu 6A Him Lam đã hình thành cộng đồng dân cư hiện đại, hoàn chỉnh và khu Trung Sơn mới trong tương lai.

Phía Nam: tiếp giáp Đại lộ Nguyễn Văn Linh, kết nối dễ dàng về các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Ngoài ra, khu Trung Sơn còn nằm giáp các tuyến đường huyết mạch: Đại lộ Nguyễn Văn Linh (Vành đai 2), đường Nguyễn văn Cừ nối dài (đường 9A), đường Nguyễn Thị Thập, Đại lộ Võ Văn Kiệt tạo sự thuận tiện kết nối Đông Tây và trung tâm thành phố.

3. Tiện ích căn hộ Sài Gòn Mia

- Về tiện ích nội khu với 4 tầng thương mại, 2 hồ bơi tràn bờ, công viên trung tâm, nhà giữ trẻ, phòng tập Gym, Spa.... Sài gòn Mia thu hút sự đầu tư của nhiều tập đoàn và thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như Pakson, Adidas, Apple, Christian Louboutin, Louis Vuitton,..... Một khu căn hộ cao cấp, một chốn an cư lý tưởng để bạn luôn nhớ đến và muốn trở cùng sum họp gia đình về sau mỗi ngày làm việc bận rộn thì không thể thiếu những tiện ích giúp bạn thư giãn và giải stress, vui chơi,. Sài gòn Mia trung sơn chính là điểm dừng chân lý tưởng của gia đình bạn. Nơi mang đến cho bạn và mọi người tràn ngập hạnh phúc, tiếng cười và cuộc sống thăng hoa.=> Tìm hiểu thêm

- Về tiện ích ngoại khu sài gòn Mia liền kề tất cả các khu dịch vụ đẳng cấp phát triển nhất khu vực trung sơn . Từ căn hộ bạn chỉ mất 10 - 15 phút là bạn có thể tới những nơi bạn muốn tới . Ngoài ra dự án kết nối trực tiếp với nhiều tuyến đường trọng điểm như đại lỗ nguyễn văn linh, nguyễn hữu thọ… dễ dàng thuận lợi di chuyển qua các quận thành lân cận. Khu vực dự án có cơ sở hạ tầng phát triển rất đồng bộ, nằm trong khu đô thị trung sơn, nơi có văn hóa cao, các dịch vụ tiện ích liền kề lớn đã đi vào hoạt động như trường học siêu thị, bệnh viện, ngân hàng, góp phần giúp cho cuộc sống của bạn dễ dàng hơn rất nhiều.

4. Thiết kế kiến trúc và chất lượng công trình


- Can ho Sai gon Mia được thiết kế theo kiến trúc hiện đại của Pháp, tiêu chuẩn kiến trúc Châu Âu, được nhiều lời khen tặng từ vị kiến trúc sư nổi tiếng người Ustralia là ông Mark Edwards Butler-người đã có những công trình được đánh giá cao trên toàn thế giới, và nhiều kiến trúc sư nổi tiếng khác trong nước công nhận

- Dự án được giám sát bởi tập đoàn APAVE- Tổ chức hàng đầu của Cộng Hòa Pháp chuyên về giám định kỹ thuật, tư vấn quản lý, đào tạo và kiểm soát rủi ro. Đã và đang giám sát nhiều dự án quy mộ lớn trên toàn lãnh thổ Việt Nam và thế giới

- Các căn hộ ở đây được thiết kế theo tiêu chuẩn kiến trúc pháp hiện đại với đa dạng các tiện ích từ 50m2 (1PN), 55m2 – 78m2 (2PN), 76m3 có (3PN) và nhiều loại hình căn hộ khác nhau như: Shop house, Officetel, căn hộ sân vườn, căn hộ Penthouse.....Phù hợp với nhiều sự lựa chọn của tất cả các cư dân.

5. Tính thanh khoản của dự án

Dự án Sài Gòn Mia có tính thanh khoản cực cao, không chỉ thích hợp mua để ở mà còn là dự án tuyệt vời để đầu tư bán lại hay cho thuê, với tiến độ thanh toán dài hạn không lãi suất trong 26 tháng, ngoài ra khi khách hàng thanh toán vượt tiến độ còn được trả lãi suất lên đến 24%/năm, cao cấp 4 lần ngân hàng. Nếu bạn đang co tiền nhàn rổi để gửi ngân hàng thì lãi suất chỉ tầm khoảng 6-8%/năm, bạn mua căn hộ sai gon Mia, bạn vừa được lãi suất cao hơn ngân hàng, vừa được sở hữu tài sản có giá trị tăng dần theo thời gian, dự kiến đến lúc nhận nhà, giá của căn hộ Sai gon Mia sẽ tăng từ 20-45%. Ngoài ra, nếu bạn đầu tư nhiều hoặc mua theo chính sách nhóm (từ 10 căn trở lên) bạn còn được mức chiếc khấu đặt biệt ưu đãi từ chủ đầu tư lên đến 10% giá trị căn hộ

6. Mức giá và chưng trình bán hàng


Theo khảo sát giá đất mới nhất 2016 thì mức giá đất mặt tiền đường 9A hiện tại lên đến 100-120tr/m2, giá đất trong các hẻm nhỏ lên đến hơn 60 triệu/m2, đó là chưa tính tới chi phí xây dựng hoàn thiện nội thất là từ 7-10 tr/m2, trong khi đó giá bán căn hộ Mia sai gon chỉ từ 30-34tr/m2, và thanh toán trong vòng 26 tháng không lãi suất

Mức cho thuê căn hộ khi hoàn thành tại Saigon Mia cũng sẽ dao động từ 800-1600usd/tháng, nếu bạn có thể thanh toán được khoảng 30% số tiền ban đầu, 70% còn lại vay ngân hàng thì tiền cho thuê căn hộ dư sức trả tiền lãi suất vay ngân hàng, vị chi sau khoảng 10 năm, bạn sẽ sở hữu 100% căn hộ của mình chỉ với số tiền 30% giá trị căn hộ.

Mặt khác, tại căn hộ Saigon Mia còn có nhiều dịch vụ và tiện ích cao cấp đi kèm như: nhà trẻ, hồ bơi, công viên....với chế độ bảo vệ 24/24, an toàn tuyệt đối cho mỗi cư dân, bạn chỉ cần dọn đồ vô ở, không cần lo lâu nhiều vấn đề khác như ở nhà phố, mà mội tiện ích đều có chỉ trong vài bước chân

7. An ninh đảm bảo an toàn tuyệt đối cho mỗi cư dân


Với chế độ bảo vệ 3 lớp 24/7, bạn hoàn toàn có thể yên tâm nếu bạn có con nhỏ ở nhà một mình hay tận hưởng một chuyến du lịch dài vài ba tháng về mà nhà bạn vẫn không hề bị xâm phạm, lớp thứ nhất là bảo vệ dự án, camera giám sát 24/24, lớp thứ 2 là thang máy, chỉ có cư dân có thẻ thang máy hoặc người thân, người xuất trình được mục đính và lý do chính đáng thì mới có thể được bảo vệ cho vào thang máy, mới có thể sử dụng được thang máy, lớp cuối cùng là hệ thống của khóa thông minh được nhập trực tiếp từ Nhật, với các chế độ khác nhau như: thẻ từ, mã số, vân tay, nhận diện gương mặt, giọng nói thì mới có thể vào được căn hộ

8. Trình độ dân trí cao

Là dòng căn hộ cao cấp, chất lượng phục vụ và mức sống nơi đây khá cao, cho nên những người sỡ hữu căn hộ nơi đây đều là những người giàu có và có trình độ dân trí cực cao, nơi đây bạn có thể làm quen và giao lưu với những người khá nổi tiếng, đều này sẽ rất tốt cho con cái của bạn về sau, vì người xưa có câu “ gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” là vậy.

Đăng ký

Minh Hoàng
Minh Hoàng
Trả lời 4 năm trước

1. Hai câu đề

- Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội "mom sông"

+ Thời gian "quanh năm": làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác

+ Địa điểm "mom sông":phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định

- Lí do:

+ "nuôi": chăm sóc hoàn toàn

+ "đủ năm con với một chồng": một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu cũng không dư.

Bản thân việc nuôi con là người bình thường, nhưng ngoài ra người phụ nữ còn nuôi chồng hoàn cảnh éo le trái ngang

+ Cách dùng số đếm độc đáo "một chồng" bằng cả "năm con", ông Tú nhận mình cũng là đứa con đặc biệt. Kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.

Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

2. Hai câu thực

- Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao "Con cò lặn lội bờ sông" nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

+ "Lặn lội": Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh "thân cò": gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát

+ "khi quãng vắng": thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ

- "Eo sèo... buổi đò đông": gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

Thực cảnh mưu sinh của bà Tú : Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

3. Hai câu luận

- "Một duyên hai nợ": ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên "âu đành phận", Tú Xương cũng tự ý thức được mình là "nợ" mà bà Tú phải gánh chịu

- "nắng mưa": chỉ vất vả

- "năm", "mười": số từ phiếm chỉ số nhiều

- "dám quản công": Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

Câu thơ vận dụng sáng tạo thành ngữ, sử dụng từ phiếm chỉ vừa nói lên sự vất vả gian lao vừa nói lên đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

4. Hai câu kết

-Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi:

+ "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc": tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều cay đắng vất vả

- Tự ý thức:

+ "Có chồng hờ hững": Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời

- Nhận mình có khiếm khuyết, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và chồng.

→ Từ tấm lòng thương vợ đến thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc

Hiep Pham
Hiep Pham
Trả lời 4 năm trước

nếu không viết được theo ý thì em phân tích theo mạch cảm xúc của bài thơ và nêu cảm nghĩ sau mỗi câu thơ em trích ra, Ví dụ

Lặn lội thân cò khi quãng vắng: thì từ lặn lội diễn tả sự vất vả tần tảo của bà Tú

Thành Nam
Thành Nam
Trả lời 4 năm trước

Em có thể tham khảo dàný ntn nhé:

1. Mở bài

- Sơ lược về cuộc đời của Tú Xương.
- Giới thiệu bài thơ Thương vợ.

2. Thân bài

a. Hình ảnh bà Tú thông qua 6 câu thơ đầu:

* Hai câu đề:
- Gợi ra không gian và thời gian làm việc mưu sinh của bà Tú, “quanh năm” thể hiện thời gian làm việc liên tục không ngừng nghỉ, quanh năm ngày tháng, “mom sông” là chốn làm việc vừa phức tạp vừa ẩn chứa nhiều mối nguy hiểm.
- “Nuôi đủ năm con với một chồng”:
+ Gợi ra nguyên do bà phải lao động vất vả, đó là bởi hai gánh nặng trên vai, 5 đứa con và 1 ông chồng “dài lưng tốn vải”.
+ Từ “nuôi đủ” cũng bộc lộ thành quả lao động, sự khéo léo, đảm đang tháo vát của bà Tú, đảm bảo cho chồng con cuộc sống no đủ.

* Hai câu thực:
- Lần nữa gợi ra bối cảnh lao động vất vả của bà Tú “nơi quãng vắng” ,”buổi đò đông”.
- Những từ “eo sèo”, “lặn lội” đặt đầu mỗi câu thơ nhằm nhấn mạnh sự vất vả, cặm cụi, tả thực công việc mưu sinh đầy buôn ba của bà.

- Hình ảnh “thân cò” gợi ra sự khổ cực, cô đơn và tội nghiệp của người lao động, của người phụ nữ trong công cuộc mưu sinh.

* Hai câu luận:

- Thể hiện sự thiệt thòi của bà Tú trong cuộc hôn nhân, cay đắng, nhọc nhằn thì nhiều nhưng hạnh phúc thì chẳng thấy đâu.
- Thế nhưng bà vẫn tình nguyện chịu đựng, nhẫn nhịn mà không một lời than vãn.
=> Đức hi sinh và lòng vị tha cao cả, xuất phát từ tấm lòng yêu chồng và thương con tha thiết.

b. Hình ảnh ông Tú:

* Hiện lên thông qua cách ông tái hiện hình ảnh của vợ:
- Trước hết ông là một người biết yêu thương, quý trọng và biết tri ân vợ.
- Tình cảm yêu thương của ông Tú được thể hiện gián tiếp qua việc khắc họa hình ảnh bà Tú, đồng thời thể hiện trực tiếp thông qua lời khen, lời ghi nhận công lao của ông Tú đối vợ “Nuôi đủ năm con với một chồng” theo lối nói hài hước, tếu táo và có chút tự trào.
- Tú Xương cũng hiện lên là một người có nhân cách thông qua những lời tự trách “một duyên hai nợ”, ông tự nhận mình là cái “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu, phải trả ở kiếp này.

* Thể hiện qua sự tự trách ở hai câu thơ cuối bài “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”:
- Đó là tiếng chửi ném vào chính mình bởi thấy áy náy và day dứt vì không hoàn thành trách nhiệm của một người đàn ông trong gia đình, sau đó là ném vào xã hội, cái xã hội để cho sự bất công được hiện diện một cách hiển nhiên.
- Xuất phát từ ý thức trách của người chồng, người cha trong gia đình, đồng thời cũng là ý thức về sự bất lực của bản thân. Sự tự trách cũng là xuất phát từ lòng yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của ông Tú dành cho người vợ kết tóc.

3. Kết bài

Nêu tổng kết nội dung bài thơ.

Trình Vũ Lục
Trình Vũ Lục
Trả lời 4 năm trước

Văn mẫu bài này thì cứ phải gọi là vô vàn, mỗi người mộtý một cảm nhận riêng,đọcđể tham khảo thôi nhé:

Tú Xương (1870-1907), tên thật là Trần Tế Xương, cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông gắn liền với giai đoạn đau thương nhất của đất nước khi thực dân Pháp hoàn toàn nắm quyền thống trị trên đất nước Việt Nam, triều đình phong kiến thì sợ hãi, nhu nhược trước kẻ thù, thối nát và khốn nạn với nhân dân. Tú Xương từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, sáng dạ, tôn thờ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho học, muốn tham gia vào chốn quan trường để giúp đời giúp nước. Thế nhưng khốn nỗi, cả cuộc đời ông dù gắn liền, tập trung hết tâm huyết vào khoa cử thế nhưng thi đến tận 8 lần mà vẫn bất đắc chí. Cuối cùng chỉ được chức tú tài, hữu danh vô thực, nhà cửa lại mất hết, điều đó đã để lại trong lòng ông những nỗi khốn khổ, đắng cay và phẫn uất vô cùng với cái xã hội Tây-ta thối nát, lẫn lộn. Những cảm xúc ấy được ông thể hiện rất rõ trong các tác phẩm thơ ca của mình. Dù cuộc đời có nhiều tủi nhục, khổ sở nhưng phúc phận cũng cho ông có được một người vợ hiền, đó là bà Phạm Thị Mẫn, người phụ nữ đại diện cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam với sự tần tảo, thủy chung, chịu thương chịu khó, cả đời hết lòng hy sinh cho gia đình. Hiểu được nỗi vất vả của vợ thế nên Tú Xương đã nhiều lần đưa hình ảnh bà vào thơ ca của mình như một hình mẫu điển hình để thể hiện sự trân trọng, yêu thương, và cảm thông với sự vất vả của bà. Điển hình là bài thơ Thương Vợ, một trong những bài thơ được biết đến nhiều nhất của Tú Xương trong mảng thơ trữ tình, bên cạnh lĩnh vực trào phúng vốn là sở trường của ông.

Dẫu là một bài thơ trữ tình thế nhưng Thương vợ vẫn thấp thoáng đâu đó cái nét trào phúng, vốn là nét riêng của Trần Tế Xương không thể lẫn lộn với bất cứ nhà thơ nào. Không chỉ vậy, với đề tài là người vợ thì Tú Xương vốn dĩ đã khác hẳn so với các nhà thơ cùng thời, ông là một trong số các nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho học lâu đời nhưng lại có cái nhìn rất khoáng đạt và thương cảm về người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bên cạnh đại thi hào Nguyễn Du nhìn về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh Thúy Kiều với tư tưởng hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc, thì Tú Xương lại có một bước tiến khác khá thú vị và độc đáo khi viết về người vợ tần tảo mưa nắng của mình bằng những câu từ tếu táo, thế nhưng ẩn chứa sâu trong đó là sự cảm thông sâu sắc, sự trân trọng, biết ơn với người vợ kết tóc của mình. Có thể nói rằng Tú Xương là một nhà thơ hiếm trong văn học Việt Nam, với những đề tài mới lạ, với giọng thơ trào phúng sâu sắc bên cạnh cuộc đời nhiều uất hận, cay đắng.Trong bài thơ hình ảnh bà Tú hiện lên thông qua nỗi lòng thương yêu của Tú Xương trước hết là ở hai câu đề.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Ở câu khai đề tác giả đã tái hiện bối cảnh thời gian và không gian mưu sinh của bà Tú. Với từ “quanh năm”, gợi cảm giác triền miên, từ ngày này qua ngày khác, mùa này qua mùa khác, năm này qua năm khác, dường như người phụ nữ này chẳng có lúc nào được ngơi nghỉ, đó là một khoảng thời gian rất khắc nghiệt của cả đời bà Tú. Thứ hai là không gian “mom sông”, là chòm đất ở bờ sông nhô ra giữa lòng sông, có thuyền đò neo đậu, rất cheo leo, nguy hiểm không hợp để làm ăn đi lại lâu dài. Ấy thế mà bà Tú vẫn phải xông pha, chen lấn để tranh hàng, để giành khách kiếm miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Từ bối cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy hình ảnh bà Tú hiện lên với công việc buôn bán vất vả và cơ cực vô cùng. Đến câu thừa đề, lại là ý giải thích cho những cái vất vả khó nhọc mà một tay bà Tú phải cáng đáng, ấy là bởi nỗi phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Cả gia đình đều trông cậy vào việc bà Tú buôn bán, bà phải gánh trên vai hai gánh nặng, một bên là 5 đứa con thơ dại, một bên là ông chồng, mà ông chồng này là gánh nặng đặc biệt, có một người thôi nhưng chẳng khác nào nuôi thêm 5 đứa con nữa. Viết như vậy, Tú Xương đang có hàm ý mỉa mai, trào phúng chính bản thân mình, mỉa mai bởi bản thân ông vốn là đàn ông sức dài vai rộng thế mà lại không biết san sẻ, đỡ đần cùng vợ nuôi 5 đứa con. Mà đằng này ông lại chẳng khác nào mấy đứa con ngày ngày ăn bám, dựa vào từng đồng tiền khó nhọc vợ kiếm được để sống cuộc đời cay đắng và bất mãn. Từ hai câu thơ trên ta thấy được cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở nỗi lòng thương vợ sâu sắc mà còn là nỗi tủi nhục, hổ thẹn với vợ và với chính bản thân mình vì sự vô năng bất lực trước cuộc đời, thấy xót xa cho cuộc đời khoa cử vô vọng, không có khả năng đùm bọc vợ con, ngược lại trở thành một gánh nặng để vợ phải một mình gánh gồng tất thảy. Bên cạnh ý giải thích, câu thừa đề này còn bộc lộ thành quả sau bao ngày tháng vất vả của bà Tú. Điều đó thể hiện thông qua hai từ “nuôi đủ”, không thừa cũng không thiếu, gần giống với câu thành ngữ dân gian “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Có thể thấy rằng bà Tú là một người phụ nữ cực kỳ tảo tần, tháo vát, dù với công việc khó khăn, với hai gánh nặng đè trên đôi vai nhưng một tay bà vẫn cáng đáng đâu vào đó, đảm bảo cho chồng con một cuộc sống đủ đầy. Hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của một trụ cột kinh tế trong gia đình, thậm chí vĩ đại hơn nhiều đấng mày râu khác trong việc đảm bảo đời sống vợ con. Có thể nói rằng đằng sau hai chữ nuôi đủ này ta thấy cả một cái sự biết ơn, trân trọng, ngưỡng mộ mà Tú Xương dành cho người vợ kết tóc của mình.

Hình ảnh bà Tú còn được tiếp tục tái hiện thông qua hai câu thực.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Nghệ thuật nổi bật ở đây là nghệ thuật đảo cấu trúc, nhấn mạnh hai từ “lặn lội” và “eo sèo” khi đặt chúng ở đầu mỗi câu thực, đó cũng là hai động thái mưu sinh của bà Tú. Trước hết từ “lặn lội” là một từ tượng hình, gợi ra dáng vẻ vất vả nhọc nhằn xông pha nơi đầu sóng ngọn gió của bà Tú, từ tượng thanh “eo sèo” lại tái hiện hình ảnh của bà Tú trong công việc mưu sinh đời thường, đó những tiếng ì sèo mặc cả, ngã giá, bon chen, giành khách giữa buổi chợ đông, cốt sao để thu được nhiều lợi tức nhất. Tác giả cũng tái hiện lại bối cảnh làm việc của bà Tú, có phần cụ thể và chi tiết hơn. “Khi quãng vắng” là bối cảnh không gian vắng vẻ, heo hút, đồng thời cũng cho chúng ta thấy bối cảnh thời gian khi sáng sớm hoặc khi tối muộn, cả không gian và thời gian đều chứa đựng trong đó nhiều bất trắc nguy hiểm. “Buổi đò đông” cũng là một môi trường làm việc quá khó khăn, lắm bon chen, thị phi, đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ cho bà Tú trong lúc mải mưu sinh. Không chỉ dừng lại ở việc tái hiện hình ảnh bà Tú trong lao động bằng những chi tiết tả thực, mà Tú Xương còn dùng một hình ảnh ẩn dụ rất kinh điển trong ca dao Việt Nam ấy là “thân cò”. Hình ảnh này gợi ra thân ảnh bà Tú đang đơn độc, lầm lũi cặm cụi trong công việc mưu sinh trong bối cảnh công việc vất vả, khó nhọc, vô cùng đáng thương. Đồng thời “thân cò” cũng gợi cho người đọc nghĩ về dáng vẻ, thân phận của người lao động, người phụ nữ trong xã hội cũ, ở họ đều có những đặc điểm chung là sự khốn khó, cam chịu và hoàn cảnh tội nghiệp.

Chuyển sang hai câu thơ luận hình ảnh của bà Tú tiếp tục hiện lên trong nỗi lòng yêu thương và trân trọng của chồng.

“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công”

Tú Xương đã vận dụng một cách tài tình các thành ngữ dân gian để khắc họa những nỗi vất vả cơ cực của bà Tú trong cả cuộc đời, trong cuộc hôn nhân với Trần Tế Xương. “Một duyên hai nợ”, xuất phát từ thuật ngữ “duyên nợ” của nhà Phật, ông đã sáng tạo bằng cách chêm xen các số từ “một”, “hai”, thể hiện ý nghĩa sâu sắc rằng trong cuộc hôn nhân này, cái duyên thì chỉ có một, nhưng cái nợ thì có tới hai. Và bà Tú thực sự là người chịu nhiều thiệt thòi, bởi duyên ít mà nợ nhiều, hạnh phúc ấm áp chẳng có bao nhiêu, mà cay đắng khổ cực thì nhiều. Bên cạnh thành ngữ “duyên nợ” thì tác giả còn sử dụng thêm thành ngữ “năm nắng mười mưa”, nắng mưa đều là những yếu tố chỉ thời tiết bất lợi, trong bài thơ là ý chỉ sự khắc nghiệt của cuộc đời mà bà Tú phải gánh chịu. Bên cạnh nghệ thuật dùng thành ngữ, thì Tú Xương còn thể hiện tính cách, tâm hồn của bà Tú trong các vế tiểu đối “âu đành phận”và “dám quản công”, thể hiện sự nhẫn nhịn, cam chịu, không nề hà than thân, trách phận của bà Tú, đồng thời cũng là đặc điểm chung của những người phụ nữ trong chế độ phong kiến, một lòng thờ chồng, thờ con. Nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú ấy là đức hi sinh và lòng vị tha cao cả, xuất phát từ tấm lòng yêu chồng và thương con tha thiết. Như vậy qua sáu câu thơ đầu, bà Tú đã hiện lên với hai đặc điểm vừa đáng thương lại cũng vừa đáng trọng.

Thông qua nỗi lòng thương vợ bộc lộ dọc bài thơ thì hình ảnh ông Tú cũng hiện lên một cách thấp thoáng. Trước hết ông là một người biết yêu thương, quý trọng và biết tri ân vợ, và trong bối cảnh xã hội xưa có được một người đàn ông biết yêu thương quý trọng người bạn đời của mình như thế là không nhiều, bởi họ còn nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất phu đa thê. Tình cảm yêu thương của ông Tú được thể hiện gián tiếp qua việc khắc họa hình ảnh bà Tú, đồng thời thể hiện trực tiếp thông qua lời khen, lời ghi nhận công lao của ông Tú đối vợ “Nuôi đủ năm con với một chồng” theo lối nói hài hước, tếu táo và có chút tự trào.

Tú Xương cũng hiện lên là một người có nhân cách thông qua những lời tự trách “một duyên hai nợ”, ông tự nhận mình là cái “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu, phải trả ở kiếp này. Sự tự trách ấy còn được thể hiện ở hai câu thơ cuối bài “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không!”, đó là tiếng chửi ném vào chính mình bởi thấy áy náy và day dứt vì không hoàn thành trách nhiệm của một người đàn ông trong gia đình, sau đó là ném vào xã hội, cái xã hội để cho sự bất công được hiện diện một cách hiển nhiên. Tiếng chửi và lời tự trách thấp thoáng trong cả bài thơ là xuất phát từ ý thức trách của người chồng, người cha trong gia đình, đồng thời cũng là ý thức về sự bất lực của bản thân khi khi không thể làm gì đỡ đần vợ con, về sự bất đắc chí trong công danh. Sự tự trách cũng là xuất phát từ lòng yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của ông Tú dành cho người vợ kết tóc của mình trong công cuộc mưu sinh, trong cuộc hôn nhân không mấy mỹ mãn này với ông.

Qua bài thơ ta thấy hiện lên hình ảnh của một người phụ nữ vừa đáng thương vừa đáng trọng, đồng thời bộc lộ được rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú với đức hy sinh cao cả, sự đảm đang tháo vát, có lòng vị tha và lòng yêu thương chồng con tha thiết. Bên cạnh đó ta còn thấy được sự yêu thương của ông Tú đối với vợ mình và vẻ đẹp nhân cách của ông qua những lời tự trách, trào phúng.