Những người cần đề phòng ung thư tuyến nước bọt?

rfgrfgfdg
rfgrfgfdg
Trả lời 11 năm trước

Ung thư tuyến nước bọt có thể bắt đầu trong bất kỳ bộ phận nào thuộc tuyến nước bọt như ở cổ, miệng hoặc cổ họng...

Những người cần đề phòng ung thư tuyến nước bọt 1
Tuyến nước bọt tạo nước bọt, trong đó viện trợ tiêu hóa và giữ ẩm miệng. Có 3 cặp tuyến nước bọt lớn dưới và phía sau hàm - mang tai, dưới lưỡi và dưới xương hàm dưới. Nhiều tuyến nước bọt nhỏ ở trong môi, bên trong má và cả miệng và cổ họng. Tuyến nước bọt của bệnh ung thư thường xảy ra ở các tuyến mang tai, mà chỉ là ở phía trước của tai.

Triệu chứng

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ung thư tuyến nước bọt có thể bao gồm:

+ Sưng trên hoặc gần hàm hoặc ở cổ hoặc miệng.

+ Tê một phần của khuôn mặt.

+ Cơ bắp yếu ở một bên của khuôn mặt.

+ Đau dai dẳng trong khu vực của một tuyến nước bọt.

+ Khó nuốt.

+ Rắc rối khi mở miệng rộng.

Nguyên nhân

Chưa rõ yếu tố gì gây ra ung thư tuyến nước bọt. Các bác sĩ biết bệnh ung thư tuyến nước bọt xảy ra khi một số tế bào trong tuyến nước bọt phát triển đột biến DNA. Các đột biến cho phép các tế bào phát triển và phân chia nhanh chóng. Các tế bào đột biến tiếp tục sống khi các tế bào khác sẽ chết. Các tế bào tích tụ thành một khối u có thể xâm nhập vào mô lân cận. Các tế bào ung thư có thể vỡ ra và lây lan (di căn) tới các vùng xa của cơ thể.

Nhưng ai cần đề phòng ung thư tuyến nước bọt

+ Người lớn tuổi: Mặc dù nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, ung thư tuyến nước bọt thường được chẩn đoán ở người lớn tuổi (từ 40 trở lên).

+ Phơi nhiễm bức xạ: Bức xạ, chẳng hạn như bức xạ được sử dụng để điều trị ung thư đầu và cổ, làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Dưới bức xạ mạnh, chẳng hạn như được sử dụng trong chẩn đoán X-quang, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Nơi làm việc tiếp xúc với các chất nhất định.

Những người làm việc với các chất nhất định, chẳng hạn như các hợp kim niken và bụi silica, có thể có tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt.

Theo bác sĩ Lê Minh Kỳ, u tuyến nước bọt là một nhóm bệnh quan trọng trong bệnh học khối u đầu cổ nói chung và bệnh của tuyến nước bọt nói riêng. Các khối u tuyến nước bọt chiếm vào khoảng 0,2 - 0,6% của tất cả các loại khối u và khoảng 2 - 4% khối u vùng đầu cổ. Ở Việt Nam, ước tính có khoảng 0,6 - 0,7 trường hợp u tuyến nước bọt mới mắc/100.000 dân.

U tuyến nước bọt chủ yếu gặp ở các tuyến nước bọt chính, trong đó tuyến mang tai là khoảng 70%, tuyến dưới hàm là 8%, còn lại 22% gặp ở tuyến dưới lưỡi và các tuyến nước bọt phụ. Có đến 75% u tuyến mang tai là lành tính, 50% u tuyến dưới hàm và 80% u tuyến nước bọt phụ được tìm thấy là ác tính.

Sự phân bố rải rác của các u tuyến nước bọt phụ làm khó khăn cho việc chẩn đoán, bệnh nhân thường đến khám ở giai đoạn muộn. Hơn nữa, triệu chứng của căn bệnh này khá nghèo nàn trong khi đặc điểm mô bệnh học lại đa dạng, phong phú với các tiên lượng khác nhau đòi hỏi chỉ định điều trị phù hợp.

Tại Bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung Ương, qua nghiên cứu hồi năm 2010 trên 65 bệnh nhân u tuyến nước bọt tới điều trị: u tuyến nước bọt phân bố ở mọi lứa tuổi, nhỏ nhất là 9 tuổi và lớn nhất là 70 tuổi, bệnh gặp nhiều ở nhóm 21 - 40 tuổi.

Khối u tuyến nước bọt lành tính thường gặp ở người trẻ trong khi các khối u ác tính thường xuất hiện ở người lớn tuổi. Nhóm tuổi thường gặp u lành là từ 21 – 60 tuổi, còn đối với u ác tính, thường gặp ở nhóm lớn hơn 40 tuổi, chiếm 8/11 trường hợp. Nữ bị ung thư nhiều hơn nam, trong 11 trường hợp thì có 9 là nữ.
Hồng Ngọc IVF
Hồng Ngọc IVF
Trả lời 7 năm trước

Ung thư tuyến nước bọt xuất hiện do sự rối loạn của các tế bào trong quá trình tổng hợp AND, làm gia tăng số lượng tế bào ở tuyến nước bọt đến mức cơ thể không kiểm soát được và tạo nên khối ung thư.

Ung thư tuyến nước bọt gồm có hơn 10 loại khối u khác nhau. Trong đó, một số loại không gây nguy hiểm nhưng một số loại lại phát triển rất nhanh và gây nguy hiểm. Do đó, mặc dù chỉ chiếm 3-5% trong tổng số các trường hợp ung thư đầu cổ nhưng ung thư tuyến nước bọt lại là dạng ung thư nguy hiểm với tỷ lệ tử vong cao.

Căn bệnh ung thư tuyến nước bọt thường phân bố rải rác thành nhiều u tuyến phụ ở các vị trí khác nhau, trong đó chỉ có 20% khối u là u ác tính. Tuy nhiên, việc chẩn đoán bệnh ung thư tuyến nước bọt vẫn gặp nhiều khó khăn nên bệnh nhân thường đến thăm khám khi bệnh đã bước vào giai đoạn chuyển nặng.

Phẫu thuật: Nếu phát hiện bệnh sớm ở giai đoạn đầu, phương pháp phẫu thuật kết hợp nạo vét hạch bạch huyết ở cổ và hàm được áp dụng phổ biến trong điều trị ung thư tuyến nước bọt và mang lại hiệu quả khá cao. Tuy nhiên, nếu khối u đã có kích thước lớn hay nằm sâu ở trong tuyến thì sẽ khó loại bỏ được hoàn toàn.

Xạ trị: Trước khi phẫu thuật, phương pháp xạ trị được áp dụng để thu nhỏ kích thước khối u. Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân nên kết hợp điều trị tia xạ để tiêu diệt các tế bào ung thư còn xót lại. Phương pháp này cũng thích hợp với bệnh nhân giai đoạn nặng, bệnh nhân không đủ sức khỏe để gây mê dài khi phẫu thuật hoặc khối u nằm ở vị trí khó có thể bóc tách được hết khi phẫu thuật.

Hóa trị: Đây không phải là phương pháp điều trị ung thư tuyến nước bọt phổ biến nhưng vẫn được áp dụng với trường hợp ung thư ở giai đoạn muộn, khối u đã lây lan sang các bộ phận khác, hoặc trường hợp ung thư tái phát sau phẫu thuật và xạ trị.