Bàn phím QWERTY được Christopher Sholes, một nhà biên tập báo sống ở Milwaukee nghĩ ra vào thập niên 1860. Ban đầu, các ký tự trên máy đánh chữ ông sáng chế ra được xếp theo thứ tự an-pha-bê trên bảng chữ cái, đặt trên ở phía cuối của thanh kim loại để đập vào giấy khi phím đó được nhấn.
khi người gõ máy chữ đã học cách đánh nhanh thì những thanh nối với các ký tự nằm gần nhau trên bàn phím trở nên vướng vào nhau, buộc người gõ phải dùng tay gỡ các thanh gõ ra, và thường xuyên để lại dấu trên văn bản.
Một nhà kinh doanh làm chung với Sholes, James Densmore, đã đề nghị tách rời các phím ký tự thường dùng ra để tăng tốc độ đánh máy bằng cách sáng chế ra những cặp thanh gõ thường dùng khỏi đập vào trục cùng lúc và dính lại với nhau.
Mất hơn 5 năm để nghiên cứu cùng với Amos Densmore, anh em của người bảo trợ James Densmore, họ cùng nhau xếp lại thứ tự của các chữ cái trên bàn phím thành 4 hàng và sau đó đã bán thành công phát minh của mình cho một nhà sản xuất máy chữ chuyên nghiệp mang tên E.Remington and Sons. Remington thực hiện một vài thay đổi nhỏ (ví dụ việc đưa chữ R lên hàng chữ trên cùng thay cho dấu chấm (.) đang ở đó để làm sao người ta có thể đánh được cụm từ TYPE WRITER trên cùng một hàng) và đưa ra mẫu bàn phím QWERTY gần giống với mẫu bàn phím hiện nay.
Hiệu quả của sự việc sắp xếp lại ký tự lên tốc độ gõ như thế nào vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Một vài nguồn xác nhận một cách sai lầm rằng bàn phím QWERTY được thiết kế ra để làm chậm tốc độ gõ lại để tránh kẹt. Những nguồn khác khẳng định rằng việc sắp xếp lại như vậy có hiệu quả khi tách rời những chuỗi ký tự thông thường trong tiếng Anh.